Thứ Hai, 12 tháng 10, 2015

Microsoft cắt giảm thêm 2.100 việc làm 2014

Microsoft cắt giảm thêm 2.100 việc làm 2014


Quá trình mua lại Nokia được cho là nguyên do cắt giảm nhân viên.

NDĐT - Microsoft công nhận cắt giảm thêm 2.100 việc làm trong kế hoạch cắt giảm 18.000 việc làm của hãng phần mềm đồ sộ này, tương đương 14% viên chức.

Hãng phần mềm khổng lồ này cho biết sẽ giảm 747 việc làm ở Seattle, nơi đặt hội sở chính của hãng này, và phần còn lại sẽ cắt giảm ở các khu vực khác.

Hiện Microsoft đã cắt giảm 13.000 việc làm, cốt tử liên quan đến bộ phận điện thoại thông minh mua lại từ Nokia.

Trong tháng Bảy, tổng giám đốc điều hành Satya Nadella đưa ra kế hoạch tổng quát chuyển đổi hãng phần mềm này từ bán phần mềm sang kinh doanh dịch vụ trực tuyến, vận dụng và thiết bị.

Hiện nay, Microsoft có khoảng 127.000 nhân viên và sẽ tiết kiệm được mỗi năm từ 1,1 tỷ USD đến 1,6 tỷ USD do việc cắt giảm nhân sự mang lại.

Microsoft cũng cho biết việc cắt giảm nhân sự sẽ trải rộng giữa nhiều phòng ban kinh doanh khác nhau và ở nhiều nước khác nhau.

Trong thư điện tử gửi cho viên chức của mình, ông Nadella, CEO của Microsoft cho biết việc cắt giảm này là rất khó khăn nhưng cần thiết và là một phần của kế hoạch để hãng này chuyển sang một hướng đi mới trong lĩnh vực công nghệ; bước đầu tiên để xây dựng một tổ chức tốt hơn là xếp đặt lại nhân sự.

Microsoft cũng đã hoàn tất việc mua lại phòng ban sản xuất điện thoại của Nokia trong tháng Tư năm nay và đang trong quá trình xây dựng vị thế tốt hơn cho sản phẩm của hãng trong lĩnh vực thiết bị di động. Quá trình mua lại Nokia tiêu tốn của hãng này khoảng 7,5 tỷ USD.
Hải Ly
(Theo BBC)
Sưu tầm: thư ứng tuyển tiếng việt

Thứ Sáu, 25 tháng 9, 2015

Kỹ Năng Lãnh Đạo - Các phong cách lãnh đạo

Sưu tầm: đơn xin thôi việc bằng tiếng anh

Kỹ Năng Lãnh Đạo - Các phong cách lãnh đạo

   Phong cách lãnh đạo của một cá nhân là dạng hành vi của người đó biểu thị các nỗ lực liên quan tới hoạt động của những người khác.

   Phong cách lãnh đạo là cách thức làm việc của nhà lãnh đạo.

   Phong cách lãnh đạo là hệ thống các đấu hiệu đặc trưng của hoạt và động quản trị của nhà lãnh đạo, được quy định bởi các đặc điểm nhân cách của họ.

   Phong cách lãnh đạo là kết quả của mối quan hệ giữa cá nhân và sự kiện, và được trình bày bằng công thức:  Phong cách lãnh đạo=Cá tínhxMôi trường.

Phân loại
   Phong cách độc đoán
   Phong cách dân chủ
   Phong cách tự do

1. Phong cách lãnh đạo độc đoán
Kiểu quản lý mệnh lệnh độc quyền được đặc trưng bằng việc hội tụ mọi quyền lực vào tay một mình người quản lý, người lãnh đạo - quản lý bằng ý chí của mình, trấn áp ý chí và sáng kiến của mọi thành viên trong tập thể.

Phong cách lãnh đạo này xuất hiện khi các nhà lãnh đạo nói với các nhân viên xác thực những gì họ muốn các nhân viên làm và làm ra sao mà không kèm theo bất kỳ lời khuyên hay hướng dẫn nào cả

ĐẶC ĐIỂM:
   Nhân viên ít thích lãnh đạo.
   Hiệu quả làm việc cao khi có mặt lãnh đạo, thấp khi không có mặt lãnh đạo.
   Không khí trong tổ chức: khởi hấn, phụ thuộc vào định hướng cá nhân

2 Phong cách lãnh đạo dân chủ:
Kiểu quản trị dân chủ được đặc trưng bằng việc người quản trị biết phân chia quyền lực quản lý của mình, tranh thủ quan điểm cấp dưới, đưa họ tham gia vào việc khởi thảo các quyết định.

Kiểu quản trị này còn tạo ra những điều kiện thuận tiện để cho những người cấp dưới được phát huy sáng kiến, tham dự vào việc lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch, song song tạo ra bầu không khí tâm lý hăng hái trong quá trình quản lý.

ĐẶC ĐIỂM
   Viên chức thích lãnh đạo hơn
   Không khí thân thiện, định hướng nhóm, định hướng nhiệm vụ
   hiệu suất cao, kể cả không có mặt của lãnh đạo.

3 Phong cách lãnh đạo tự do

Với phong cách lãnh đạo này, nhà lãnh đạo sẽ cho phép các nhân viên được quyền ra quyết định, nhưng nhà lãnh đạo vẫn chịu trách nhiệm đối với những quyết định được đưa ra.

Phong cách lãnh đạo giao phó được sử dụng khi các nhân sự có khả năng phân tách tình huống và xác định những gì cần làm và làm như thế nào. Bạn không thể ấp ôm đồm tất cả mọi công tác! Bạn phải đặt ra các trật tự ưu tiên trong công tác và phó thác một số nhiệm vụ nào đó.

ĐẶC ĐIỂM
   NV ít thích lãnh đạo.
   Không khí trong tổ chức thân thiện, định hướng nhóm, định hướng vui chơi.
   Hiệu suất thấp, người lãnh đạo vắng mặt thường xuyên.

Các cảnh huống cụ thể

1. Theo thâm niên công tác

   Sử dụng phong cách lãnh đạo độc quyền đối với các nhân sự mới, những người còn đang trong giai đoạn học việc.

   Nhà lãnh đạo sẽ là một tập huấn viên tốt với đầy đủ năng lực và trình độ.

   Nhờ đó, nhân sự sẽ được động viên để học hỏi những kỹ năng mới. Đây sẽ là một môi trường hoàn toàn mới dành cho các nhân viên.

2 Theo các thời đoạn phát triển của tập thể
   Thời đoạn khởi đầu hình thành. Là giai đoạn tập thể chưa ổn định, mọi thành viên thường chỉ thực hành công việc được giao theo nhiệm vụ, nhà lãnh đạo nên sử dụng phong cách độc đoán.

   Thời đoạn tương đối ổn định.Khi các thành viên chưa có sự hợp nhất, tự giác trong hoạt động, tính hăng hái, sự kết đoàn chưa cao, nên dùng kiểu lãnh đạo mềm mỏng, linh hoạt.

   Thời đoạn tập thể phát triển cao: Tập thể có bầu không khí tốt đẹp, có ý thức kết đoàn, có khả năng tự quản, tự giác cao, nên dùng kiểu dân chủ hoặc tự do.

3 Dựa vào tính khí của NV
   Đối với tính khí sôi nổi – nóng nảy.
   Đối với tính khí trầm tư mặc tưởng – nhút nhát.

4 Dựa vào nam nữ

5 Theo trình độ của NV:
   Sử dụng phong cách lãnh đạo phó thác đối với các nhân viên hiểu rõ về công tác hơn chính bản thân nhà lãnh đạo.
   Nhà lãnh đạo chẳng thể ôm ấp đồm tất cả mọi thứ! Các viên chức cần làm chủ công việc của họ.
   Cũng như vậy, trường hợp này sẽ giúp nhà lãnh đạo có điều kiện để làm những công tác khác cấp thiết hơn.

6 Dựa theo tuổi:
   Nên dùng kiểu lãnh đạo tự do đối với người hơn tuổi.
   Trái lại đối với người nhỏ tuổi thì dùng kiểu độc tài.

7 Cần độc đoán với:
   Những người ưa chống đối
   Không có tính tự chủ.
   Thiếu nghị lực
   Kém tính sáng tạo

8 Cần dân chủ với
   Những người có tính thần cộng tác.
   Có lối sống tập thể.

9 Nên tự do với
   Những người không thích giao tiếp.
   Hay có đầu óc cá nhân chủ nghĩa

10 Với tình huống bất trắc:

   Với một số tình huống đòi hỏi ta phải hành động khẩn trương và kịp thời, chẳng hạn như hoả thiến.
   Mọi nỗ lực phải dốc hết vào xử lý tình huống.

   Doanh nghiệp cần một sự lãnh đạo cứng rắn và uy quyền.

11 dị đồng trong tập thể:

   Khi có sự dị đồng trong tập thể, trước sự thù địch, chia rẽ nội bộ, nhà quản trị cần phải vận dụng kiểu lãnh đạo độc đoán, sử dụng tối đa quyền lực của mình.

12 Những cảnh huống gây hoang mang

   Đôi khi do sự xáo trộn trong tập thể như đổi thay, cải tổ…không ai biết nên phải làm gì, mọi người đều hoang mang.

   Nhà quản trị phải tỏ ra gần gũi, gặp gỡ bàn luận, thông báo, tạo mối quan hệ thân tình để trấn an nhân viên.

St

Chủ Nhật, 20 tháng 9, 2015

Động lực làm việc của viên chức hoàn toàn phụ thuộc vào chính sách nhân sự

Động lực làm việc của viên chức hoàn toàn phụ thuộc vào chính sách   nhân sự

(HR) Nhiều chủ công ty thường không nhận ra rằng chính họ và những chính sách do họ đưa ra là tác nhân cốt yếu tương tác đến thái độ làm việc của nhân viên.

Ý thức làm việc của nhân sự có ba cấp độ căn bản. Cấp độ một là thái độ bất mãn với công việc, không có động lực làm việc. Nói một cách bình dân là ‘xìu”. Cấp dộ hai là không bất mãn, cũng không hưng phấn.

Tức là không ’sung” cũng không ‘xìu”? Cấp độ ba là thỏa mãn và làm việc một cách hưng phấn. Gọi chung là ’sung”.

Dĩ nhiên nhà buôn, nhà quản lý nào cũng muốn đội ngũ nhân viên mình làm việc trạng thái hưng phấn vì hiệu quả sẽ cao gấp nhiều lần hai trạng thái kia. Nhiều khi họ bứt đầu bứt tai vì chẳng thể đổi thay tinh thần làm việc của nhân sự từ cấp độ một hay cấp độ hai sang cấp độ ba.

Câu chuyện dưới đây là một trường hợp để tham khảo.

Hoàng là trưởng phòng kinh doanh một công ty chuyên sản xuất và kinh doanh thực phẩm. Ngoài khả năng và kinh nghiệm quản lý anh còn là người thông tỏ thị trường. Chính cho nên mà doanh nghiệp gần như giao hẳn quyền điều hành màng lưới kinh doanh cho anh.

Nhưng bất thần, cách nay vài tháng, Hoàng nộp đơn ứng tuyển. Mọi người kinh ngạc vì anh vốn là người rất máu nóng với đơn vị. Giám đốc ra công tìm hiểu nhưng cũng chỉ được anh giải đáp với lý do hết sức chung chung là không hài lòng với chính sách ở đây.

Rút cuộc,   phòng nhân viên   phải dùng đến cách “vỡ hoang” vợ anh, qua đó mới hiểu nguyên do chính khiến Hoàng quyết định đi khỏi vì doanh nghiệp đã trả   lương   cho trưởng phòng tiếp thị cao hơn anh. Hoàng không thể ưng ý việc mình đã làm cho cơ quan bốn năm, có kinh nghiệm nhiều hơn lại nhận mứác lương thấp hơn người mới vào đơn vị được vài tháng và thuộc lớp đàn em.

Khi biết rõ căn do, giám đốc đã phải vội vàng giảng giải cho Hoàng biết anh vẫn được đơn vị kiểm tra cao khả năng làm việc, nhưng vì doanh nghiệp cần một trưởng phòng tiếp thị nên đã phải đồng ý trả mức thu nhập trên. Giám đốc thuyết phục Hoàng ở lại vì công ty đã có kế hoạch điều chỉnh lương của anh và các trưởng phòng khác cho tương hợp.

Rõ ràng, bài học rút ra từ câu chuyện trên cho các nhà quản trị là việc phải bảo đảm tính công bằng về thu nhập giữa các nhân viên. Nếu không bảo đảm được sự công bằng về lương thuởng trong một thời kì ngắn thì nên đích thân giảng giải cặn kẽ cho họ biết lý do, cũng như kế hoạch khi nào điều chỉnh.

Thường nhật, để giải tỏa tâm lý bất mãn, mất động lực làm việc của nhân viên, các nhà quản trị cần phải hiểu rõ những tác nhân gây ra nó. Dưới đây là một số gợi ý.

Thu nhập thấp hơn mức chuẩn. Nếu thu nhập của nhân sự thấp hơn mức đúng ra họ được trả theo vị trí, tính chất công tác và khả năng thực hiện công việc (tạm thời gọi là mức chuẩn) thì xác suất rất lớn là nhân viên đó cảm thấy không còn hứng thú với công việc.

Thu nhập không công bằng. Nhân sự sẽ tự tính ra một hệ số tạm bợ gọi là hệ số công bằng trong thu nhập. Tử số là toàn bộ thu nhập, kể cả thưởng và những chế độ ưu đãi. Mẫu số là hiệu quả công việc cộng với khả năng làm việc gồm kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm.., Và mức độ đóng góp cho cơ quan. Khi nhân viên cảm nhận hệ số này của họ nhỏ hơn của một hay nhiều đồng nghiệp khác, họ sẽ thấy khó chịu và không hài lòng với lãnh đạo.

Chính sách khen thưởng, thăng tiến,   tập huấn   không rõ ràng. Những chính sách tác động đến lợi quyền và mai sau của nhân sự nếu không được công khai và không được thực hiện rõ ràng, công bằng cũng sẽ làm cho nhân viên không hài lòng và bất mãn.

Nhân sự không được giao đúng công việc. Khi được giao việc dưới khả năng hay không đúng chuyên môn, kinh nghiệm, nhân sự sẽ cảm thấy bất công, không hài lòng với cấp quản trị.

Nhân viên “được” theo dõi, kiểm soát quá gắt gao. Một số nhà quản trị, vì lo viên chức không làm được việc, hoặc sợ nhân viên không chân thực… đã quản lý và theo dõi quá gắt gao. Khi đó, nhân sự sẽ thấy rất khó chịu và bất mãn.

Nhân viên cấp trung gian bị bỏ qua. Nhiều nhà quản trị thường xuyên làm việc thẳng với nhân viên phía dưới, không duyệt và cũng không thông tin với cấp quản lý trung gian. Việc này có thể xảy ra trong những trường hợp đặc biệt, nhưng nếu thường xuyên sẽ làm cho cấp quản lý trung gian lao chịu và cảm giác mình là người ‘thừa”.

Viên chức không được hỗ trợ về nguồn lực. Để thực hành công tác, nhiều lúc nhân sự cần sự hỗ trợ của cấp trên về tài chính, thời gian và nhân công. Khi không được tương trợ đúng mứác và đúng lúc họ sẽ có cảm giác mình không được đơn vị quan hoài và từ đó bất mãn với công tác.

Nhân sự không nhận được chỉ đạo cụ thể. Đôi khi các nhà quản trị giao việc và mục tiêu cho nhân sự không rõ ràng, hoặc giả đổi thay liên tục mục đích hay quyết định cũng làm cho nhân viên bối rối và không hài lòng với công tác.

Nhân sự không được phát triển. Nếu nhân sự không được tập huấn thường xuyên, không có điều kiện để học hỏi, phát triển cá nhân và nghề nghiệp, họ sẽ cảm thấy bị ‘vắt” sức lực và trí não thay vì có cảm giác cống hiến.

Nhân sự không được phát huy tính sáng tạo. Thuộc tính công việc quá đơn điệu, môi trường làm việc không phát huy tính sáng tạo cũng làm nhân sự sờn.

Viên chức bị thử thách liên tục. Một số nhân viên do hoàn thành công tác quá xuất sắc, đã ‘được” sếp liên tục giao cho những chỉ tiêu cao và khó hơn. Những nhân sự đó cảm giác rằng sếp không bao giờ hài lòng với thành tựu của họ dù họ đã làm tốt công tác.

Sếp ‘bắt’ nhân sự nhận lỗi thay cbo mình. Khi nhà quản trị phạm sai trái, thái độ tốt nhất là họ phải bằng lòng lỗi và đề ra hướng giải quyết. Nếu nhà quản trị thường xuyên không nhận lỗi và đưa nhân sự ra nhận lỗi trước sếp cao hơn hay đối tác sẽ làm cho nhân sự không phục và dẫn đến bất mãn với sếp và cơ quan.

Hệ thống phục vụ nội bộ không tốt. Trong một doanh nghiệp mà các phòng ban được lập ra không phải để hỗ trợ nhau mà là để đánh giá và làm khó nhau cũng sẽ tạo ra sự bất mãn lớn trong nhân viên. Hệ thống kềnh càng, thủ tục nội bộ phức tạp sẽ làm nhân sự không hài lòng và triệt tiêu hưng phấn làm việc của viên chức.

Không có tinh thần đồng đội. Nhân sự làm việc trong một môi trường mà sếp không tạo ra được một ý thức đồng đội – mọi người không gắn bó với nhau, châm chọc nhau, làm khó nhau – họ cũng sẽ rơi vào tình trạng không hài lòng với bản thân, với đồng nghiệp và doanh nghiệp.

Quantri.Vn

Nguồn tham khảo: tài liệu viên chức

Thứ Ba, 8 tháng 9, 2015

Kĩ thuật xây dựng hệ thống kiểm tra năng lực theo 3p

Kĩ thuật xây dựng hệ thống kiểm tra năng lực theo 3p

Một trong các cách thức trả   lương   mà được rất nhiều các Cả nhà bây chừ đang bàn bạc và quan hoài đó là phương pháp trả lương theo 3p.

Trong đó các nhân tố chính được dùng trong cách thức trả lương theo 3P được dùng:

   1. Position – phê chuẩn đánh giá giá trị công tác (job evaluation)
   2. Person – phê duyệt kiểm tra viên chức (Person evaluation)
   3. Performance – ưng chuẩn kiểm tra hiệu quả hoàn thành công việc

   Vậy làm thế nào để xác định được 3P trên?
   “P” thứ nhất chính là việc xác định giá trị (chấm điểm chức danh) công việc. Để làm được việc này đòi hỏi những người làm   nhân viên   cần có kỹ thuật xây dựng, và phương tiện đi kèm như hệ thống bảng hỏi chấm điểm chức danh, hệ thống thang chấm điểm, tháng bậc Lương tham khảo, kinh nghiệm xây dựng thang bảng lương…….Mà gần như thường có trường lớp nào   tập huấn   bài bản, cung cấp cho chũng ta các hệ thống mẫu biểu trên để tiến hành xây dựng

   Cách thức xác định “P thứ hai”
   Ta đã biết muốn trả lương thích hợp cho viên chức thì ta phải biết được nhân viên đó có khả năng gì, đâu là điểm yếu. Từ đó chẳng những có căn cứ để trả Lương một cách hợp lý mà còn là căn cứ để đào tạo phát triển viên chức
   Để đánh giá năng lưc nhân viên thì các bước khai triển ra sao?

   Bước 1: Điều tra và khảo sát thực trạng hệ thống và phân tích khuynh hướng phát triển thực trang của cơ quan
   Đây là bước rất quan trọng nó cho phép ta rà soát đánh giá được thực trạng của đơn vị, cảm nhận của cán bộ nhân viên. Song song cho phép ta định hình hiệu quả hệ thống làm căn cứ cho việc xây dựng các tiêu chí, tiêu chuẩn đánh gái năng lực viên chức.
Để thực hành bước này cần phải chuẩn bị:
   - Các phương tiện điều tra như Bảng hỏi khảo sát, bảng hỏi phỏng vấn
   - Kế hoahcj khai triển công việc
   - Sự tương trợ của ban lãnh đạo

Bước 2: Xây dựng hệ thống tiêu chí kiểm tra năng lực nhân viên, các mẫu biểu đánh giá đi kèm:
   - Xác định tiêu chí đánh giá năng lực
   - định nghĩa và biểu hiện chi tiết các Tiêu chí năng lực
   2.1 Xác định tiêu chí đánh giá năng lực
   a. Thông thường một số đơn vị phân ra các tiêu chuẩn đánh giá nhân sự và lãnh đạo
   b. Xây dựng vì có nhiều cách chia ra các nhóm năng lực

    I. Chia ra làm 03 nhóm năng lực theo ASK:
     Nhóm 1: Năng lực về kiến thức
     Nhóm 2: Năng lực về kỹ năng
     Nhóm 3: Năng lực về phẩm chất/Thái độ (Sáng tạo, khả năng quan sát, quản trị xung đột, làm chủ nguồn lực…..)

    II. Như vậy đối với mỗi một vị trí cụ thể sẽ lấy trong mỗi nhóm năng lực khoảng 03-05 năng lực cần cho vị trí đó để làm căn cứ đánh giá nhân sự.
   2.2 định nghĩa và miêu tả chi tiết Tiêu chí năng lực (đây có thể coi là giai đoạn quan yếu nhất)
Các bước cơ bản:
   1. Xác định danh mục năng lực duyệt y bản hỏi, bản diễn đạt công tác và cái quan trọng nhất là kinh nghiệm của người làm
   2. Định nghĩa và bộc lộ chi tiết năng lực: Mỗi năng lực sẽ chia ra định nghĩa các cấp độ 03-05 cấp độ
   3. Bước tiếp theo sau khi có sản phẩm từ các cán bộ quản trị, lãnh đạo và đội ngũ chuyên gia trong và ngoài doanh nghiệp ta sẽ phải điều chỉnh lại cho phù hợp
   4. Bước cuối cùng là gửi cho lãnh đạo góp ý và chỉnh sửa cho ăn nhập với mục tiêu quản trị của từng lãnh đạo.
Một số lưu ý cá nhân:

   Bước 3: kiểm tra mức độ đáp ứng của cán bộ với các cấp độ.
   3.1 đánh giá mức độ đòi hỏi của vị trí công việc:
   Việc đánh giá này không quá khó, ta chỉ cần căn cứ quan trọng là phải sử dụng hệ thống bản thể hiện công việc, vị trí công việc đề xuất làm những ciệc gì thì sẽ có yêu cầu năng lực kèm theo

   3.2 đánh giá mức độ đáp ứng với vị trí công tác
   - Việc đánh giá mức độ đáp ứng của cán bộ đối với yếu cầu của công tác là công tác đòi hỏi sự đánh giá phải công bằng, tuân thủ chặt chẽ với các tiêu chí đã đề ra

   - Có thể sử dụng hình thức thành lập hội đồng kiểm tra và đánh giá qua khách hàng. Sauk hi đnáh giá có thể sửu dụng một số công cụ phân tích để có thể nhìn trực giác hơn về năng lực của nhân sự

Kỷ yếu Ngày nhân sựu Việt Nam
Phạm Vương
  phòng nhân viên   , ĐH Kinh tế, ĐHQG

“Cắt giảm   nhân sự   là cách chung cuộc cơ quan phải làm”

"Mưa" thời cơ rơi khắp nơi trong khủng hoảng nhưng ai có hạt giống tốt thì sẽ đón nhận "cơn mưa" tốt hơn và hạt giống mới có thể nảy mầm. Đang đi trong kinh tế khó khăn, sức cầu giảm, chẳng có cơ quan nào tự tin rằng mình đã thoát khó. Bên cạnh đó, tạm bợ gác sang một bên những khó khăn đang ở phía trước, lãnh đạo nhiều doanh nghiệp đã đến dự Ngày viên chức Việt Nam 2013. Họ đến, san sẻ cho nhau kinh nghiệm để giúp nhau đi qua khủng hoảng.

Cắt giảm viên chức là điều chung cuộc doanh nghiệp phải làm

   mở màn đoạn chia sẻ của mình, ông Nguyễn Thái Dũng, Phó giám đốc điều hành Big C đã thừa nhận: Kinh tế khó khăn, sức mua của người tiêu thụ sụt giảm mạnh. Chúng tôi (Big C) là những người tiếp xúc với endusers (người tiêu thụ cuối cùng) nhiều nhất nên hiểu rất rõ khủng hoảng và sức cầu yếu.

   Để tồn tại được, Big C đã đưa ra không biết bao nhiêu chương trình khuyến mại, thậm chí, phối hợp với nhà sinh sản để đưa ra chuỗi giá trị cao hơn. Ở Big C, chúng tôi có hơn 10 nghìn viên chức và 75% số đó là nhân viên bán hàng, thu ngân. Khoảng 3% là các chuyên gia cao cấp và một phần từ doanh nghiệp mẹ cung ứng.

   Cũng như các doanh nghiệp khác, Big C cũng gặp vấn đề khủng hoảng. Ở Big C, trong khủng hoảng, chúng tôi tiến hành sắp xếp lại nhân sự để hoạt   động hiệu quả hơn. Cắt giảm viên chức, phí tổn nhân viên là điều rút cuộc doanh nghiệp phải làm. Chúng tôi luôn coi viên chức là nhân tố chủ chốt giúp doanh nghiệp phát triển.

   Điều cốt lõi trong đề án tái cấu trúc nhân viên của chúng tôi là rà soát, kiểm tra lại để sắp xếp ăn nhập, tăng cường năng suất lao động để KHÔNG phải sa thải nhân viên. Nhân sự có thể sẽ phải làm việc nhiều hơn nhưng không bị sa thải và đảm bảo không bị điều tiết giảm   lương   .

Mưa thời cơ có ở khắp nơi trong khủng hoảng

   "Xử lý khủng hoảng là xử lý ngắn hạn trong một bức tranh dài hạn" là san sớt của ông Vũ Hoàng Liên-chủ tịch hiệp hội Internet Việt Nam. Ông Liên cho rằng, lãnh đạo vượt khủng hoảng thì cốt lõi vấn đề là "Changing". Phải thay đổi đơn vị bằng phát huy nội lực. Đơn vị khi gặp khủng hoảng cần cắt nhỏ vấn đề ra để xử lý.

   Ông Liên nhấn mạnh: Khủng hoảng là thời cơ. "Mưa" thời cơ rơi khắp nơi trong khủng hoảng nhưng ai có hạt giống tốt thì sẽ đón nhận "cơn mưa" tốt hơn và hạt giống mới có thể nảy mầm.

   Trong đoạn san sẻ với những người tham gia hội nghị về vấn đề hiệp tác, liên doanh, ông Liên cũng nhìn nhận: Trong khủng hoảng, nhiều đơn vị có khuynh hướng hiệp tác, liên doanh để tạo sức sức mạnh lớn hơn. Khi liên doanh, kết liên không tránh khỏi những mâu thuẫn về quyền lãnh đạo, sử dụng viên chức sau liên doanh nhưng điều quan yếu nhất là luật chơi cả thành văn lẫn bất thành văn. Một khi đi đến được thỏa thuận rốt cuộc thì câu chuyện mâu thuẫn đó sẽ không còn nữa.

   P. TGĐ Phú Thái- Ông Phạm Quốc Mạnh lại san sẻ vấn đề quyền lãnh đạo bằng một câu khá ngắn gọn: Khi liên doanh, kết liên thì vấn đề quan trọng là làm cho đơn vị tốt hơn chứ không phải ai là lãnh đạo công ty.

(Nguồn: cafef.Vn)

Chủ Nhật, 21 tháng 6, 2015

Tâm lý giới văn phòng - Human Capital

Tâm lý giới văn phòng

Hiện tượng chán nản, sút giảm nhuệ khí cần lao, thường xuyên các nhân sự văn phòng không thỏa mãn như mục đích trông đợi của nhà   tuyển dụng   . Đằng sau hiện tượng này là những tâm lý, tính cách con người vô cùng khó hiểu. Nếu nhà quản lý coi con người là nguồn lực, là sức mạnh của cơ quan thì họ cần phải nắm được “tảng băng ngầm” của dân văn phòng, điều chỉnh chúng hữu hiệu cho công việc chung.

Luôn bận rộn “giả tạo”

Đa số dân văn phòng đều biểu hiện với gia đình, bè bạn rằng họ đảm đang những công tác đơn vị quan trọng, ngồn ngộn và san sẻ thời kì làm việc khác rất eo hẹp. Trên thực tại, công tác đơn vị của họ hàng ngày đâu có nhiều đến vậy.

Nhiều nhân viên chỉ “gắn bó” với máy tính, cứ gặp là thấy “bận rộn” với chat Yahoo, viết blog, chơi game… Tất cả đều nhằm tạo dựng cho hình ảnh đang giải quyết “nốt” công tác chồng chất của cơ quan trước sếp, đồng nghiệp và bạn bè.

Thu mình để vừa lòng “số đông”

Bạn là “ma cũ” - càng sống lâu ở văn phòng thì càng giảm bớt những cá tính, những ưu điểm và sự nổi trội của bản thân. Sự tích cực quá, nồng nhiệt quá với công việc thuở ban sơ thui chột dần. Đến cả trang phục, dung mạo của bản thân cũng điều chỉnh cho vừa mắt mọi người, nghĩ suy cũng không còn quá bốc nữa…

“Vừa vừa phai phải” hình như là tuyển lựa của bất kỳ ai để tránh người khác xì xào, săm soi mình, giữ cho bản thân thực sự bình yên trốn văn phòng. Nếu thái quá vì để vừa lòng số đông, tự bạn trở nên nhợt nhạt khi sống và làm việc, thiếu đi sức sống, thu mình lại, thui chột khả khả năng sáng tạo, nhân sự không còn biểu hiện được năng lực, phong cách riêng của mình.

Nhịp sống văn phòng mỏi mòn đơn điệu

Các ma cũ của văn phòng đều cảm nhận thấy mình sống ngày càng tẻ nhạt. Cách ly khỏi thế giới náo nhiệt, dân văn phòng sống trong không gian văn phòng ít đổi thay, cũng với thời gian như thế trong ngày, cũng những con người đã quá quen và với công tác đã nhàm… Mọi cái không đổi, diễn đi diễn lại như một vở kịch dài tập đã thuộc lòng. Bạn rồi sẽ ớn đến cả cơm văn phòng, thời trang công sở, họp hành, tán dóc… Sự tĩnh lặng, nhàm chán đi vào tâm tưởng này cũng làm cho suy nghĩ cuộc sống, sinh hoạt riêng của “cư dân” văn phòng trầm xuống, sơ cứng không chút đổi mới. Đến cả dịp lễ Tết, kỳ nghỉ phép cũng chỉ “yên lẽ” đến và đi như cái nhịp sống trong bốn bức tường văn phòng.

Suy kiệt đam mê công việc

Theo thời gian làm việc, bầu nhiệt huyết lao động của dân văn phòng nguội lạnh dần. Bao lăm cống hiến, đưa cần lao trở nên nguồn vui của họ đã đi đâu? Từ một chàng trai, cô gái nhiệt thành, xông xáo với công việc được giao, họ đã dần dần mất đi nhuệ khí phấn đấu và đeo đuổi những mục đích làm việc.

Cuộc sống công sở ít nhấp nhô, trồi sụt còn làm cho khả năng nhận biết các giá trị của cần lao của họ bị nhòe đi, không còn đáng lưu tâm. Nhìn khắp văn phòng, họ không còn thấy có gì là đáng quý, đáng coi trọng nữa.

Nhà quản lý cần thấu hiểu và san sẻ hơn với dân công sở

Tâm lý của các nhân viên nơi công sở là một "chiến trận" quan trọng mà các nhà quản trị cần phá hoang. Chỉ bằng cách quan hoài thấu hiểu và san sẻ hơn với nhân sự thì nhà quản lý mới huy động được sức mạnh của đội ngũ con người ấy.

Đằng sau nhịp sống, làm việc trong không gian văn phòng với thời lượng 8h/ ngày, ngoài những đầu việc đưa xuống, những lời phán như “trời giáng”, nhà quản trị cần phải hiểu được cái thế giới lặng thầm đang vận hành với quy tắc của nó trong tâm não giới nhân sự. Dù muốn hay không, cái “thế giới ngầm” đó vẫn đang yên lẽ, đều đặn chi phối lại tiết điệu, hiệu quả của những công tác công ty. Tìm hiểu, ghi nhận và động viên ý thức nhân sự là biện pháp mà nhà quản lý cần làm để điều chỉnh cho tác động ấy có lợi cho cơ quan. Phương cách nhà quản lý cần thực hành đó là:

Nhà quản lý cần bằng mọi cách lắng tai nhưng tâm sự, tình cảm của viên chức trong một bầu không khí cởi mở, thực lòng nhất.

Nhà quản lý cần thúc đẩy tích cực vào tâm lý của từng viên chức phê chuẩn sự tôn trọng, đề cao sự khác biệt của mỗi người, suy tôn tinh thần nghĩa vụ và thành tựu cần lao của nhân viên về mọi mặt: vật chất lẫn tinh thần.

Liên tục cổ vũ, làm tươi mới cứng thần làm việc của nhân sự bằng thực thi một chính sách văn hóa cơ quan. Nhà quản lý cũng cần đổi gió, xua bớt bầu không khí u ám, ảm đảm cho tâm lý dân văn phòng, ý thức đổi mới của công sở bằng cách tổ chức cách hoạt động ngoại khóa,   huấn luyện   , doanh nghiệp hội hè, đi nghỉ và giao lưu cộng đồng…

Quantri.Vn

Phân biệt giữa người làm công và cộng sự

Những người làm việc trong các đơn vị thường được chia một cách ước lệ thành hai phạm trù “Những người làm thuê” và “những người cộng sự” dựa trên những tiêu chí như: nhân viên đó đã đóng góp những gì vào thành tựu chung, mối quan tâm của anh ta đối với hoạt động của đơn vị, anh ta có các ý tưởng nâng cao hiệu quả và hiệu suất lao động hay không…vững chắc trong mỗi tập thể đều tìm ra được những người làm việc tích cực, nhiệt tình và những người dường như chỉ “làm chiếu lệ” những nhiệm vụ được giao. Vậy thì sự phân biệt giữa hai nhóm người này là: có những người biết phối hợp giữa lợi ích cá nhân với ích lợi của tổ chức, trong khi đó có những người chỉ nghĩ đến ích lợi của riêng mình.

Làm thế nào để phân biệt “người làm công” với “cộng sự”?

“Cộng sự” là những người:

- Luôn quan tâm đến hoạt động chung;

- Làm mọi việc trong khả năng của mình để đạt được những thành tích tốt và hoàn tất mục tiêu đặt ra;

- Vì lợi ích của cơ quan;

- Có nghĩa vụ đối với tăm tiếng của công ty;

- Động não nghĩ suy để thực hành công việc của mình một cách tốt nhất;

- Đưa ra sáng kiến cải tiến quy trình lao động, sinh sản;

- Phối hợp có hiệu quả với các phòng ban của doanh nghiệp.

Trong khi đó, “người làm công”:

- Không quan hoài đến điều gì khác ngoài khuôn khổ công việc được giao;

- Thực thi nhiệm vụ một cách hời hợt theo kiểu nếu ngày làm việc kết thúc, anh ta có thể ngay tức tốc bỏ dở công tác;

- Những lý do anh ta thường viện ra là: “Tôi đã làm mọi việc theo hướng dẫn”, “Anh đã không trò chuyện đó cho tôi biết trước”, “Đây không phải là công tác của tôi”, “Người ta không trả tiền để tôi làm việc này”…

- Chỉ theo đuổi những ích lợi cá nhân;

- Khi thất bại thì luôn đổ lỗi cho những yếu tố bên ngoài (chả hạn như do khách hàng, do thị trường, do quy định của chính phủ…);

- Quan hệ không tốt với các chi nhánh của công ty.

Tuy vậy, bạn chớ vội cho rằng tất cả mọi người thuộc nhóm “cần lao thuê mướn” đều là những làm việc kém hiệu quả, mà đó thường chỉ là nhân viên chẳng thể làm việc trong đội nhóm. Ngoài ra, cả “người làm mướn” và “cộng sự” đều cấp thiết và có vai trò quan yếu đối với mỗi đơn vị. Dưới đây là một vài “chân dung” điển hình:

Người theo chủ nghĩa lãng mạn: Đó là một người tạo ra bầu không khí thoải mái trong tập thể, gây được niềm tin và biết ủng hộ người khác, tham gia tích cực các lễ hội nói chung, chấp hành tốt nội quy công ty, làm việc có hiệu quả trong mọi điều kiện lãnh đạo khi có các mục tiêu dài hạn đặt ra. Điều thúc đẩy tiêu cực đến người theo chủ nghĩa lãng mạn là sự cạnh tranh trong tập thể, hay nói đúng hơn là nguyên do dẫn tới sự cạnh tranh này. Họ dễ thay đổi công việc, nếu trong tập thể chỉ toàn âm mưu, điều đơm đặt và sự thù nghịch.

Trong một tập thể kết đoàn, những người lãng mạn này làm việc rất hiệu quả vào giai đoạn mới thành lập của công ty, bởi vì đặc điểm của họ là lòng vị tha sâu sắc. Họ luôn sát cánh cùng tổ chức trong mọi hoạt động. Khi đó, họ sẽ không muốn thay đổi, thậm chí khi họ nhận được lời mời quyến rũ, họ có thể từ chối vì họ cảm thấy cần có bổn phận với lãnh đạo, với đồng nghiệp và với công tác của mình.

Người chuyên nghiệp: Đối với những người này, sự chuyên nghiệp, thành công và uy tín là những ưu tiên hàng đầu. Theo A.Maslow, những người như thế luôn đòi hỏi nhu cầu tôn trọng (sự tự trọng, thành tích cá nhân, uy tín, được những người xung lòng vòng tôn trọng, được thừa nhận…). Theo ý kiến của triết lí D.MacKlelland, có thể xếp những người này vào số những người hành động dựa trên quyền lực của mình. Họ là những người cởi mở và đầy nghị lực, không sợ đối mặt và mong muốn bảo vệ những giá trị của mình. Những người chuyên nghiệp làm việc có hiệu quả trong thời đoạn “trưởng thành” của cơ quan.

Ngoại giả, họ rất quyết liệt đối với những đồng nghiệp thiếu chuyên môn và làm hỏng việc. Họ thích lối lãnh đạo rõ ràng. Đây cũng có thể là một phong cách đáng tin cậy, một điều cốt tử để trở nên một lãnh đạo sáng ý và kinh nghiệm.

Những điều quan trọng đối với dạng người này là công danh, mở mang nghiệp vụ, uy tín trong công tác, danh tiếng của công ty, quan hệ công việc với lãnh đạo chuyên trách, cơ quan cần lao có hiệu quả, cảm giác được vai trò của mình trong tập thể, mức độ trang bị kỹ thuật tại doanh nghiệp.

Người đổi mới: Đó là một người có óc sáng tạo và tháo dỡ vát, hãn hữu khi bỏ lỡ thời cơ hoàn tất một công tác hay một đề xuất nào đó có tính chất mới lạ. Anh ta luôn cố gắng thực hành các ý tưởng của mình, nhưng không phải là kẻ ba hoa. Đây là ưu điểm to nhất của một người đổi mới. Khi biểu đạt về những sáng kiến đó, anh ta sẽ không nói về bản quyền, mà về kết quả đạt được khi vận dụng chúng.

Điều cốt tử của loại người này là mong muốn được biểu thị mình, thực hiện những khả năng tiềm tàng của mình và hoàn thiện bản thân. Những ưu tiên của người “đổi mới” là nhu cầu thành công - không phải là một tuyên bố thành công, mà là một quá trình tạo nên sự thành công. Những người này thường nhận về mình nghĩa vụ   tìm kiếm   cách giải quyết các vấn đề.

“Những người đổi mới” làm việc hiệu quả khi cơ quan có nhu cầu hiện đại hóa. Những người này hoàn thiện bản thân hơn khi có một người lãnh đạo ủng hộ sáng kiến của anh ta, người tạo cho anh ta một mức độ tự do nhất định và không hạn chế năng lực của anh ta.

Người kiếm tìm/ khai thác: Đó là điểm đặc trưng của một cần lao làm mướn. Họ có mối quan tâm rất lớn đến vấn đề tài chính. Căn do là do họ gặp phải những thay đổi trong gia đình, những đứa trẻ mới ra đời, các vấn đề nhà cửa cần giải quyết … Đó vẫn là những việc mặc cả “người chuyên nghiệp”, “người đổi mới” và “người theo chủ nghĩa lãng mạn” đều chẳng thể tránh khỏi. Nếu công ty có đủ khả năng đáp ứng được các nhu cầu vật chất, thì những động cơ quan yếu đối với đơn vị có thể trở nên những động cơ ưu tiên hàng đầu của những người “tìm kiếm/khai hoang”.

Trong số những người “kiếm tìm/ khai thác” có những người được coi là “những người chăm sóc gia đình”. Những người này luôn hướng tới gia đình. Ở đây chúng ta nói về sự cân bằng hợp lý giữa những nguyên tố cấu thành nên công tác và gia đình trong đời sống con người. Họ ít khi chấp nhập việc đi nghỉ lễ hay nghỉ làm, khi thấy còn rất nhiều việc phụ thuộc vào mình. Đối với loại cần lao này, bạn cần phải có một khoản trợ cấp xã hội phục vụ cho gia đình họ như du lịch, khám chữa bệnh miễn phí, tài trợ giáo dục … đều có thể “neo giữ” những cần lao này.

Người liên tục thay đổi chỗ làm việc: Đó không phải là một cộng sự, vì họ chỉ làm việc trong thời kì ngắn.
Chúng ta biết được qua danh sách dài các nơi làm việc trước đây của anh ta. Những căn nguyên thay đổi công tác rất khác nhau và không phải bao giờ cũng là căn nguyên xấu:

- Do đơn vị cũ không có hệ thống khuyến khích khích lệ hợp lý.

- Họ tìm kiếm thời cơ nâng cao tay nghề, ngoại giả những người “liên tục thay đổi chỗ làm việc” không có khả năng áp dụng những tri thức có được một cách sáng tạo.

- Không muốn làm một công tác cổ điển - điều này tác động họ lao tới một công việc thú vị. Lý do chính của họ là: “Tôi biết hết rồi, chẳng còn gì làm tôi hứng thú nữa”.

- Những vấn đề cá nhân: xung đột, bản tính khó chan hòa, là người thiếu trách nhiệm… Trong các cảnh huống găng tay, họ thường sử dụng chiến thuật “bỏ chạy” cùng nhân viên những cử chỉ không thiên nhiên, đóng kịch (như việc đóng sập cửa, đưa đơn mất việc định kỳ…).

- Không có sức mạnh ý chí.

Người sở hữu: Trong số những “cộng sự”có một kiểu người như thế, nhưng trong vai trò của một cần lao thuê mướn, anh ta có thể tạo ra mối nguy hiểm ngấm ngầm đối với công ty. Theo lệ luật, đó là một lãnh đạo tốt: thông minh, có chí hướng, tự lập và có nghị lực. Anh ta coi mọi công việc của công ty như là công tác của chính mình. Những người này tự mình đạt được những mục đích đặt ra, và họ biết vỡ hoang mọi tiềm năng của mình. Bên cạnh đó mặt trái ở đây là anh ta sẽ bằng cách này hay cách khác đấu tranh thường xuyên vì quyền lực nhằm mở rộng quyền hành của mình.

Ưu điểm của “người sở hữu” là tính độc lập, thỏa mãn với công việc, có khả năng liên quan tích cực đến tiến triển của tình hình, mức độ nghĩa vụ cao. Trong một số cảnh huống, mục đích của anh ta là có kinh nghiệm mới, có các mối quan hệ, có tri thức, có thể đạt được công danh. Cần phân biệt “người sở hữu” với “người sở hữu gian dối”- một phạm trù nhắc đến những người chỉ cần biết đến việc anh ta có thể có thu nhập cao trong công tác của mình hay không, cơ mà thiếu những năng lực cần thiết. “Chìa khóa” dành cho những người cần lao với nhân cách của một “người sở hữu” là triển vẳng trở nên người chủ kinh doanh.

Người đồng hành: trở thành một “người đồng hành” là một biện pháp tình thế. Họ có thể là một chuyên gia giỏi, nhưng vì chẳng thể tìm được một tổ chức hay một công tác hợp ý nên đã ưng ý một lời mời trước đó. Hiểm nguy ở chỗ anh ta coi công việc này như một công tác tạm thời. Tâm trạng “sẵn sàng ra đii” liên quan rất lớn đến sự trung thành của nhân viên đối với tổ chức. Với tâm cảnh như thế, anh ta có thể làm việc chưa tròn một năm mà từ bỏ tất cả không lần chần gì ngay khi nhận được một đề nghị quyến rũ.

Bạn có thể phân loại một cách tương đối chuẩn xác nhân viên của mình ngay từ giai đoạn   tuyển dụng   phê duyệt một số câu hỏi như:

- Điều gì trong công tác làm anh hứng thú?

- Anh thích nhất điều gì?

- Trong những điều kiện nào anh làm việc hiệu quả nhất?

- Trong những điều kiện nào anh coi lợi ích của đơn vị như ích lợi của chính mình?

- Anh quan hoài đến vấn đề gì khi xem xét một đề xuất làm việc?

- Anh không hài lòng điều gì ở nơi làm việc trước đây?

- Anh muốn đạt được điều gì khi làm việc ở công ty chúng tôi?

- Hãy viết ra những điều kiện làm việc lý tưởng đối với anh?

Bạn đừng quên rằng hiệu suất làm việc của “hợp tác viên” thường cao hơn năng suất làm việc của “lao động thuê mướn”. Để thuê lao động, cả hai phía - nhân viên và công ty - đều phải cân đối giữa đề nghị và năng lực đáp ứng đề nghị đó. Nếu coi xét việc   tuyển dụng   giống như một sự hiệp tác, thì kết quả là cả hai phía sẽ dễ dàng thực hiện được tối đa các yêu cầu và mục đích của mình. Có thể kiểm tra khả năng cộng tác này sớm hơn khi biết người lao động có thể và muốn gì, cũng như biết tổ chức có thể và muốn làm gì. Sự quan hoài đến những nhu cầu cần yếu là điều kiện tiên quyết để hình thành nên một cộng sự. Vậy trong doanh nghiệp của bạn, số “người làm thuê” đông hơn, hay số “cộng sự” lớn hơn?

Quantri.Vn

Thứ Hai, 25 tháng 5, 2015

Lương tối thiểu vùng 2015: Chốt đề nghị tăng 3,1 triệu đồng - HR

Lương tối thiểu vùng 2015: Chốt đề nghị tăng 3,1 triệu đồng

Đây là phương án được Hội đồng tiền lương nhà nước chốt sau buổi làm việc sáng 6/8, đã nhận được 63% so phiếu đồng thuận trở nên phương án tăng lương tối thiểu năm 2015 và sẽ được trình lên Thủ tướng cân nhắc, quyết định ứng dụng từ năm sau.

Cụ thể, đề xuất lương tối thiểu vùng 1 năm 2015 là 3.100.000 đồng/người/tháng (tăng 400.000 đồng so với lương tối thiếu năm 2014), vùng 2 là 2.700.000 đồng (tăng 350.000 đồng), vùng 3 là 2.400.000 đồng (tăng 320.000 đồng), vùng 4 là 2.200.000 đồng (tăng 300.000 đồng).

Như vậy, mức tăng lương nhàng nhàng so với năm nay là 15,1%.



Bên cạnh việc bàn tới mức lương tối thiểu vùng năm 2015, thứ trưởng Bộ LĐTBXH Phạm Minh Huân cho rằng, trong năm 2015, Hội đồng tiền lương quốc gia sẽ phải đi sâu vào nghiên cứu mức lương tối thiểu theo nhiều căn cứ bổ sung như: Chỉ số giá tiêu dùng, đời sống lao động, sự chênh lệch mức lương giữa khu vực phi chính thức và chính thức, lương giữa cơ quan quy mô lớn và đơn vị quy mô nhỏ.

“Hội đồng bạc lương quốc gia sẽ kiến nghị Thủ tướng Chính phủ cho phép thành lập Hội đồng nghiên cứu hiệu suất lao động, nhằm đảm bảo đời sống lao động và yêu cầu những biện pháp cạnh tranh của cần lao Việt Nam” - ông Huân cho biết thêm.

Ngoại giả, ông Mai Đức Chính, Phó chủ tịch Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam cho biết lịch trình là đến năm 2017, mức lương tối thiểu khu vực cơ quan sẽ đạt mức nhu cầu thấp nhất. Do đó, nếu năm nay mức lương tăng thấp hơn dự kiến thì những năm sau, doanh nghiệp sẽ phải "nặng gánh" hơn.

Theo quy định hiện hành, các đơn vị và đơn vị, đơn vị thuộc khu vực ngoài ngân sách nhà nước phải trả lương cho người động không thấp hơn lương tối thiểu vùng. Đây cũng thường là căn cứ để các tổ chức tính toán mức đóng Bảo hiểm xã hội cho người lao động.

Nửa đầu năm nay, Viện Công nhân và Công đoàn, Tổng Liên đoàn cần lao đã khảo sát về vấn đề tiền lương, mức sống tối thiểu với 1.500 công nhân, lao động tại 60 công ty ở 12 tỉnh giấc, thành. Kết quả cho thấy, mức lương hiện chỉ đáp ứng 69-77% mức sống tối thiểu theo vùng. Do đó, Tổng Liên đoàn từng đề ra phương án tăng lương tối thiểu vùng I lên mức 3,4 triệu đồng.

Ngoại giả cộng đồng tổ chức cho rằng mức tăng 23% ngay trong năm 2015 là quá cao khi tình hình sản xuất, kinh doanh chưa hết khó khăn. Chủ tịch Phòng thương nghiệp và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) Vũ Tiến Lộc cho rằng chỉ nên tăng khoảng 14% để đảm bảo đời sống người lao động song song hỗ trợ tổ chức.

L-a.Com.Vn

Microsoft tiếp tục đợt cắt giảm nhân viên lần hai trong năm 2014

Như một số tin đồn hồi đầu tuần này, Microsoft tiếp tục một đợt cắt giảm nhân viên thứ hai gồm 2.100 người hôm 18/9, là một phần trong kế hoạch tái cấu trúc công bố hai tháng trước đây.

Phát ngôn viên của Microsoft cho biết, kế hoạch cắt giảm này sẽ tác động đến 18.000 nhân viên, chiếm khoảng 14% nguồn nhân lực của hãng ở nhiều phòng ban khác nhau, tại nhiều nước trên khắp thế giới.

Microsoft sẽ tiếp tục thực hiện kế hoạch này một cách chu đáo nhất, nhưng song song cũng trình bày sự tôn trọng sâu sắc nhất đối với từng cá nhân bị thúc đẩy và cố gắng không làm chất lượng dịch vụ bị suy giảm. Tất cả các nhân sự Microsoft bị cắt giảm sẽ nhận được gói trợ cấp mất việc theo qui định của hãng.



Trong tháng 7/2014, Microsoft đã thải hồi khoảng 13.000 nhân sự trong đợt thứ nhất. Hiện không rõ là đợt cắt giảm 2.900 viên chức còn lại sẽ được thực hành khi nào. Đây là một trong những kế hoạch cắt giảm nhân sự lớn nhất trong lịch sử hãng Microsoft.

Hầu hết nhân viên bị cắt giảm hồi tháng 7 vừa qua đều thuộc bộ phận Thiết bị và Dịch vụ của Nokia, là công ty mà Microsoft đã mua lại với giá 7,2 tỷ USD vào tháng 4 năm nay, chỉ trong vòng chưa đến 2 tháng sau khi Satya Nadella phụ trách vị trí CEO. Thương vụ này được đưa ra từ năm 2013 khi Steve Ballmer vẫn còn là CEO.

Trong bức tâm thư gửi cho toàn thể nhân viên Microsoft về kế hoạch cắt giảm viên chức, Nadella đã viết rằng “chiến lược liên kết với bộ phận Thiết bị và Dịch vụ Nokia dự kiến sẽ tác động đến khoảng 12.500 viên chức, có cả những chuyên gia và công nhân nhà máy”. Con số đó chiếm khoảng một nửa số nhân sự Nokia được chuyển nhượng từ thương vụ trên.

Một số nhà phân tích trong ngành giải thích rằng, việc cắt giảm viên chức Nokia như là một tín hiệu cho thấy Nadella đã có một thời gian khó khăn vì thương vụ mà người tiền nhiệm chuyển giao cho ông. Thậm chí một số còn dự đoán rằng, Nadella rút cục có thể chấm dứt bằng cách thoái vốn của doanh nghiệp Nokia hoàn toàn.

Dự đoán về thời kì thực hành các đợt thải hồi tiếp theo, một số nhà phân tích nhận định rằng, Microsoft có thể sẽ giãn quá trình sa thải ra trong một khoảng thời kì dài. Hãng phần mềm này hồi tháng 7 đã cho biết dự định hầu hết các vị trí sẽ bị cho nghỉ việc vào cuối năm 2014, và kế hoạch sẽ hoàn tất vào cuối năm tài chính của Microsoft vào tháng 6/2015.

Ngoại giả, thông báo không chắc chắn về việc ai sẽ ở lại và ai sẽ rời đi tiếp theo được cho là không tốt cho tinh thần nhân sự. Ngoài ra, với mỗi đợt sa thải mới, mọi người được nhắc lại về kế hoạch cắt giảm này và do đó có thể làm tăng mối quan tâm của các khách hàng cơ quan lớn đang đầu tư mạnh vào công nghệ của Microsoft.

Microsoft đang trải qua một thời kỳ đổi thay lớn. Hãng này có chiến lược cốt tử là chuyển từ một nhà cung cấp phần mềm sang bán các dịch vụ điện toán đám mây lưu trữ tính phí tổn thông qua đăng ký hàng năm. Đây là một trong những động thái nhằm cạnh tranh với nhiều đối thủ mạnh bao gồm cả Google, Cisco, IBM, Oracle, Salesforce.Com, Apple và Amazon.

Pcworld.Com.Vn

Thứ Bảy, 2 tháng 5, 2015

Nghệ thuật quy hoạch tại chỗ nguồn nhân lực - Hr news

Nguồn tham khảo: tài liệu môn quản lý nhân lực

Nghệ thuật quy hoạch tại chỗ nguồn nhân lực

Chiến lược phát triển nguồn nhân lực đóng vai trò rất quan yếu trong chiến lược phát triển của mọi tổ chức. Trong hành trình này, việc thu hút và giữ chân người có tài, có nhiệt huyết, muốn gắn bó với cơ quan thường được đặt lên hàng đầu. Bên cạnh đó, trên thực tại vấn đề này luôn là bài toán khó.

Tách biệt “hiệu quả làm việc” với “tiềm năng phát triển”

Tại Việt Nam những năm gần đây, nhiều công ty lớn dễ dàng thu hút hào kiệt bằng những thư mời nhận việc quyến rũ, với mức   lương   rất cao, điều kiện và dụng cụ làm việc tốt, thậm chí nhiều chế độ phúc lợi còn hơn cả các tập đoàn đa nhà nước.

Dù vậy, chỉ sau một thời kì ngắn, các thiên tài đều “dứt áo ra đi”, đa phần là vì không thích hợp với văn hóa hoặc cung cách quản lý của cơ quan. Trong bối cảnh đó, vấn đề quy hoạch   viên chức   cốt lõi trở nên khôn xiết nan giải.

Khác với cơ quan Việt, ở hồ hết các tập đoàn nước ngoài, “succession planning” (trợ thời dịch là hoạch định kế thừa, tương đương với ý nghĩa quy hoạch cán bộ) là hoạt động chẳng thể thiếu trong chức năng quản lý nguồn nhân công.

Đây là quá trình xác định nhu cầu kế thừa,   kiếm tìm   và phát triển nhân sự nội bộ để sau một thời kì có thể cất nhắc cáng đáng các vị trí hiểm yếu trong đơn vị. Quá trình này luôn được tiến hành khôn xiết cẩn trọng, với sự tham gia của nhiều phòng ban, trong đó phòng ban quản trị nguồn nhân công đóng vai trò chủ đạo.

Sự khác nhau trong việc xây dựng hàng ngũ kế thừa giữa đơn vị Việt và các cơ quan nước ngoài còn nằm ở phương pháp kiếm tìm và xây dựng đội ngũ kế thừa. Ở công ty Việt, việc đề bạt người kế thừa thường xuất phát từ sự nhìn nhận công trạng hoặc những nhận xét cảm tính của chủ hoặc người quản lý cơ quan.

Trong khi đó, cơ quan nước ngoài không đánh đồng hai định nghĩa performance (nhất thời dịch là hiệu quả làm việc) với potential (tiềm năng phát triển). Một nhân sự có thể hoàn tất xuất sắc nhiệm vụ ở một vị trí công việc nào đó trong nhiều năm liền, nhưng không có nghĩa là người đó có tiềm năng phát triển để giữ vị trí cao hơn.

Một cán bộ có thể có công lao và đóng góp rất lớn cho đơn vị khi quản lý một phòng ban nào đó, nhưng khi được đề bạt giữ vị trí cao hơn lại không hoàn tất nhiệm vụ, làm việc kém hiệu quả, và sức đóng góp cũng giảm hẳn.

Vì vậy, lãnh đạo doanh nghiệp cần vô cùng cẩn trọng khi xây dựng đội ngũ kế thừa, không nên vội vàng “đưa vào quy hoạch” một cán bộ hay nhân sự chỉ đơn giản vì người đó đang làm tốt công việc ngày nay, hoặc có sự đóng góp lâu năm.

Và có kế hoạch bài bản

Không ít doanh nghiệp Việt Nam lúng túng vì cho rằng mình không có hàng ngũ kế thừa, trong khi đó, nhiều đơn vị khác lại quá tự tin rằng mình có thừa lực lượng tại chỗ nên không cần mời gọi nhân kiệt từ bên ngoài.

Vấn đề cần quan tâm không phải là thừa hay thiếu, mà nằm ở chỗ phát hiện và phát triển thế nào để có được lực lượng “hậu bị” tốt. Dưới đây là một số kinh nghiệm của các đơn vị đa quốc gia.

Trước nhất, cơ quan phải xây dựng một hệ thống đánh giá thành tích nhân sự, trong đó đặt trung tâm vào hiệu quả làm việc (chiếm tỷ lệ 60-70%) với những mục tiêu và thước đo (KPI) được định lượng rõ ràng; phần còn lại là các năng lực (competence) hay kỹ năng (skill) làm việc.

Những tiêu chuẩn này phải được bàn luận, thống nhất giữa nhân viên (người được đánh giá) với cấp quản trị trực tiếp (người đánh giá), và được ưng chuẩn bởi cấp quản lý cao hơn.

Quy trình này mang ý nghĩa mục đích của viên chức phải gắn kết với mục tiêu của cấp quản lý trực tiếp, mục tiêu của quản trị cấp dưới phải gắn kết với mục tiêu của cấp quản trị cao hơn, và chung cục, mục đích của tất cả các cấp quản trị và nhân viên phải hướng về mục đích của cơ quan. Mặt khác, năng lực hay kỹ năng của nhân viên phải là những năng lực, kỹ năng cần thiết cho công việc.

Định kỳ hằng quý hoặc hằng năm, khi kiểm tra các mục tiêu và năng lực của cấp dưới, cấp trên cần coi xét luôn tiềm năng phát triển của họ. Tiềm năng phát triển gồm cả sở thích, ước vọng, mục tiêu nghề nghiệp, năng lực hiện hữu, và quan yếu nhất là tố chất và khả năng tiếp nhận (khi được   huấn luyện   ).

Một quản lý cấp trung trong một đơn vị nước ngoài hoàn toàn có thể thoải mái và tự tín khi nói với cấp trên trực tiếp của mình là anh ta muốn trở thành tổng giám đốc doanh nghiệp sau 5 -7 năm, mà không sợ bị “đì” hay kiểm tra là “hỗn”.

Khi kiểm tra được tiềm năng phát triển của cấp dưới, cấp trên trực tiếp (và cấp trên cao hơn) có nghĩa vụ phải bổ sung cho họ những năng lực cần thiết chuẩn y việc tập huấn, phát triển theo một mục đích do hai bên cùng xác định.

Một kế hoạch kế thừa bài bản phải đảm bảo, mỗi chức danh mấu chốt trong cơ quan đều có một nhân sự đủ tiềm năng thay thế sau một thời kì nhất định, kèm theo đó là kế hoạch tập huấn, kèm cặp để bổ sung năng lực cần thiết cho người kế nhiệm.

Lẽ cố nhiên, không phải ai được đưa vào diện “quy hoạch” cũng kiên cố được cất nhắc, vì nhiều lý do. Một trong lý do khá phổ quát là người “cũ” chưa “đi”.

Trong trường hợp này, việc cất nhắc người đã được quy hoạch lên một chức phận tương đương ở một công ty khác trong cùng công ty là giải pháp hay, nhằm giữ người.

Vì trên thực tế, không ít viên chức thuộc diện được “quy hoạch” nhưng không đủ kiên nhẫn để chờ đợi, đành phải đi tìm thời cơ mới ở doanh nghiệp khác.

Như trên đã nói, đội ngũ kế thừa không phải thiên nhiên mà có, nhưng nếu kiên tâm tìm và biết cách tìm thì sẽ thấy. Đội ngũ này cần phải được hoạch định và phát triển theo một kế hoạch bài bản, chuyên nghiệp, với chính sách rõ ràng, sáng tỏ.

Chìa khóa thành công không gì khác hơn là xác định đúng nhu cầu kế thừa, phát hiện đúng đối tượng kế thừa, và có kế hoạch huấn luyện với lộ trình hợp lý.

Đa phần các kế hoạch kế thừa thường được công khai cho chính người được quy hoạch biết, nhằm tăng động cơ phấn đấu. Ngoài ra, điều này cũng có thể gây tác dụng ngược, khi người được quy hoạch cảm thấy đã “chắc ăn” nên sinh ra ỷ lại và chểnh mảng phấn đấu.

Đây chính là lý do để nhiều công ty ứng dụng chính sách quy hoạch nhiều ứng viên cho cùng một chức phận, nhằm tạo môi trường ốc đua. Với bất kỳ cách nào,điều cần nhấn mạnh vẫn là việc đào tạo tăng cường năng lực, phẩm chất cho hàng ngũ kế thừa ấy.

Chung cục, một cấp quản trị hay một nhà lãnh đạo mai sau không nên chỉ trông vào cơ quan mà còn phải biết tự huấn luyện. Một trong những tố chất được xếp lên hàng đầu, đồng thời cũng là yêu cầu gần như bắt buộc cho mọi ứng cử viên kế thừa, là ý thức say mê học hỏi, tự rèn luyện, chủ động “nâng cấp” bản thân để có thể sẵn sàng đảm đương các trọng trách cao hơn.

Quantri.Vn

Thứ Sáu, 24 tháng 4, 2015

Làm việc trong văn phòng thiếu cửa sổ khiến nhân viên giảm tuổi thọ - Hr Froum

Sưu tầm:  cách tìm việc nhanh nhất

Làm việc trong văn phòng thiếu cửa sổ khiến nhân viên giảm tuổi thọ

Một nghiên cứu mới đây cho thấy những nhân viên văn phòng phải làm việc trong môi trường không có cửa sổ hoặc ít tiếp xúc với ánh sáng ban ngày có thể sẽ gia tăng nguy cơ mắc các bệnh béo phì, tim mạch, tiểu đường, thậm chí tuổi có thể bị rút ngắn.



Theo nghiên cứu này, những người ngồi gần cửa sổ sẽ có giấc ngủ ngon và sâu hơn, chất lượng cuộc sống tốt hơn, tâm trạng cũng thoải mái hơn những người không được tiếp xúc với ánh sáng thiên nhiên ban ngày.

Kết quả nghiên cứu được ban bố trên Journal of Clinical Sleep Medicine, một tạp chí y khoa lâm sàng có tiếng. Nghiên cứu này đã chỉ rõ môi trường làm việc có thể rất quan yếu để thiết lập đồng hồ sinh học của thân thể.

Các nhà nghiên cứu cũng nói thêm rằng, nếu văn phòng được thiết kế để có thể cân bằng sáng bởi ánh sáng thiên nhiên sẽ tăng cường sức khỏe thể chất và tinh thần của người lao động.

Thường xuyên mất ngủ không chỉ làm tâm cảnh xấu đi và thiếu giao hội mà nó còn có thể làm tăng nguy cơ mắc các bệnh nghiêm trọng như béo phì, tim mạch và tiểu đường, thậm chí là rút ngắn tuổi thọ.
Các nhà nghiên cứu từ đại học Illinois, Đại học Northwestern ở Chicago và

Viện Công nghệ Hwa-Hsia Đài Loan đã hợp tác để điều tra vai trò của cửa sổ tại nơi làm việc trong quá trình hỗ trợ giấc ngủ.

Họ tuyển dụng 49 tình nguyện viên là các nhân sự văn phòng, hơn một nửa trong số đó đã dành cả ngày trong môi trường chỉ toàn ánh điện và phần còn lại xúc tiếp thường xuyên với ánh sáng ban ngày duyệt y cửa sổ.

Kết quả cho thấy những người có tiếp xúc thường xuyên với ánh sáng ban ngày sẽ có thêm làng nhàng 46 phút ngủ mỗi tối so với các đồng nghiệp chỉ ngồi làm việc trong ánh điện. Họ cũng có thang điểm chất lượng giấc ngủ vượt trội hơn, ít rối loạn giấc ngủ và có nhiều đêm ngon giấc hơn.

Trong một báo cáo về những phát hiện mới này, các nhà nghiên cứu viết: “'nhân viên văn phòng tiếp xúc với ánh sáng nhiều hơn tại nơi làm việc cũng có thiên hướng có chất lượng giấc ngủ tốt hơn, hoạt động thể chất nhiều hơn và chất lượng cuộc sống tốt hơn. Chúng tôi đề xuất thiết kế kiến trúc của môi trường văn phòng nên chú trọng vào xúc tiếp với ánh sáng ban ngày đủ cho người cần lao để tăng cường sức khỏe và hạnh phúc."

Sao lưu của một nghiên cứu trước đó cũng cho thấy, những y tá ít có khả năng phải đối mặt với chứng kiệt lực từ sự găng công tác và có thể hài lòng với công tác nếu họ được xúc tiếp với ánh sáng tự nhiên chí ít ba tiếng một ngày.

Lê Nguyên (Dân Việt)

Chủ Nhật, 12 tháng 4, 2015

10 điều cấm kỵ nơi công sở - HR

10 điều cấm kỵ nơi công sở

(VnMedia) - Cách biểu đạt kém chuyên nghiệp không chỉ ảnh hưởng tới hình ảnh của bạn trong mắt mọi người mà còn hạn chế sự phát triển nghề nghiệp của bạn. Hãy tránh những điều cấm kỵ sau nếu không muốn gây ấn tượng xấu nơi công sở!

Dưới đây là 10 điều bạn cần tránh nơi công sở:



Nghỉ trưa quá lâu

Một việc dễ gây tức giận cho sếp và làm phiền đồng nghiệp kéo dài thời gian ăn trưa hoặc nghỉ trưa quá lâu. Thỉnh thoảng, mọi người thường dùng thời gian ăn trưa để giải quyết công tác riêng, nhưng nếu bạn vẫn chưa kết thúc công việc đó, hãy để đến sau khi tan sở. Đừng bao giờ kéo dài giờ giải lao nếu không mọi ngưòi sẽ có ấn tượng xấu về bạn.

Đi làm muộn

Nếu bạn đến tổ chức muộn trong một ngày đã thông báo trước, mọi người có thể thông cảm được. Nhưng mọi người sẽ không chấp nhận nếu bạn ngày nào cũng đi làm muộn và về sớm. Điều này không công bằng với những người đến và về đi đúng giờ.

Không ngăn nắp

chắc chắn bạn sẽ không hài lòng khi thấy người khác xả rác bừa bãi, làm bừa bộn phòng làm việc. Do đó bạn cần giữ phòng làm việc, phòng họp, căng-tin ngăn nắp, sạch sẽ bởi trong môi trường công sở những người sống luộn thuộm, bừa bãi thường không được kiểm tra cao.

To tiếng

Có nhiều người xung vòng vèo bạn đang cố gắng làm việc do đó, nói to không chỉ gây phiền toái mà còn chứng tỏ bạn không tôn trọng họ. Đồng nghiệp của bạn sẽ không thích bị làm phiền bởi ngôn ngữ chuyện to và những cuộc luận bàn không phù hợp làm ảnh hưởng đến công việc của họ.

Không lưu ý tới lời nói của mình

Hãy luôn nghĩ suy kĩ trước khi nói bởi nếu không cẩn thận, những câu nói của bạn có thể liên quan tới người khác hay thậm chí là cả công ty.

Buôn chuyện

“Buôn chuyện” là việc cần tránh nơi công sở bởi nó có thể gây ra nhiều mâu thuẫn giữa các thành viên trong tổ chức và chúng ta không bao giờ lương được hậu quả của nó. Hãy nhớ rằng, bạn không có quyền "ăn không, nói có" và những chủ đề không mang tính xây dựng, nội dung không phù hợp như ai trong tổ chức đã giải phẫu thẩm mĩ, chuyện yêu đương của đồng nghiệp, chuyện gia đình của người khác… là câu chuyện cần tránh nhất.

Cắm mặt vào Facebook

liên tục xem bảng tin trên Facebook hay Instagram chỉ làm bạn mất giao hội mà thôi do đó trương mục Facebook cá nhân của bạn cần phải được xếp sau công việc.

Không giao du với đồng nghiệp

Trong môi trường công sở, giữ mối quan hệ tốt và giao dịch với đồng nghiệp là rất cấp thiết. Nếu bạn tự cách ly bản thân trong không gian riêng của mình sẽ khiến bạn làm xấu đi tâm trạng và giảm hiệu quả công việc của mình. Hãy tìm một tí thời gian để tán gẫu và làm quen với các đồng nghiệp của mình.

Trình bày xúc cảm quá mạnh mẽ

Trong môi trường công sở chẳng thể tránh được những lúc bực bội, tự ái dẫn đến khó kiểm soát được cảm xúc của mình. Những lúc này bạn cần bình tĩnh và kiếm soát cảm xúc của mình để tránh không gây ra những hành động mang đến hậu quả nghiêm trọng.

Mang công tác cá nhân tới cơ quan

Đồng nghiệp và sếp sẽ không hài lòng khi bạn thường xuyên thực hiện những cuộc điện thoại cá nhân trong công việc, nó chứng tỏ bạn không hội tụ vào công việc. Do đó, bạn cần hạn chế những cuộc điện thoại hoặc những mối quan hệ gia đình, bạn bè trong thời kì làm việc ở công sở.

Thanh Châu

Những cách xử sự của sếp làm nhân viên thấy thoả mãn

Dù cách làm khác nhau nhưng vẫn có một đôi lề luật hiệu quả mà mọi doanh nghiệp đều có thể ứng dụng để làm viên chức của mình thấy hạnh phúc và thỏa mãn.

Môi trường làm việc năng động, chuyên nghiệp, đồng nghiệp gắn bó, thân ái, có thưởng cho những cá nhân làm tốt….Những câu khẩu hiệu ấy bạn đã nghe cả trăm lần. Nhưng cụ thể phải làm những gì? Đó là vấn đề mà Beth Thomas trăn trở mỗi ngày. Là một nữ giám đốc của một doanh nghiệp tham mưu nhân công tại Dublin, Ohio của Mỹ, Beth Thomas cho rằng mỗi tổ chức đều có đặc thù riêng và nên cách xây dựng văn hóa nơi công sở cũng không thể bê nguyên mẫu của các công ty khác.

Theo Thomas, có rất nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng nếu bạn làm nhân viên vui vẻ, bạn sẽ khiến họ làm việc hiệu suất hơn. Chính bởi vậy, tạo động lực làm việc cho nhân sự có vai trò rất quan yếu và các lãnh đạo đơn vị cần phải coi đây là một ưu tiên để dành thời gian và công sức thực hành.

Dù cách làm khác nhau nhưng vẫn có một vài luật lệ hiệu quả mà mọi đơn vị đều có thể ứng dụng để làm nhân sự của mình thấy hạnh phúc và thỏa mãn.

1. Khen thưởng cả những công tác thường nhật

Viên chức thường có nhiều động cơ làm việc hơn khi họ thấy công tác của mình có ý nghĩa quan trọng với doanh nghiệp. Cho nên hãy chứng tỏ cho nhân viên ở mọi cấp bậc thấy công việc của họ có tầm quan yếu ra sao. Nếu nhờ các nhân viên trong dây chuyền sản xuất hay đội ngũ đảm đang kho hàng mà doanh nghiệp hoàn tất được một đơn hàng lớn đúng thời hạn, hãy nói cho những người đó biết là bạn kiểm tra cao công việc của họ thế nào và mời họ một bữa trưa miễn chi phí. Nhiều công việc có thể khá là bội bạc – hãy đổi thay điểu đó.

2. Khen thưởng người hoàn tất xuất sắc công tác

Khen thưởng nhân viên khi họ hoàn tất xuất sắc công tác có hai tác dụng: thứ nhất, bản thân người được khen thưởng thấy mình được coi trọng; thứ hai, những nhân sự khác sẽ lấy đó làm hình mẫu để họ học tập theo. Lời khuyên của Beth Thomas là: "Hãy tìm ra những hành vi mà bạn muốn phát huy và công khai khen thưởng những hành vi đó”. Ngoại giả, bạn cũng phải vô cùng cẩn trọng, đừng khen thưởng một viên chức quá nhiều lần hoặc quá mức cấp thiết bởi như thế sẽ làm nảy sinh lòng tị ghét, đố kỵ trong nội bộ. Nếu một nhân viên liên tiếp làm tốt công việc, hãy tìm cách đưa người đó lên vị trí chỉ đạo, chỉ dẫn để người đó có thể tiếp tục phát huy hành vi đó.

3. Hiểu tâm lý viên chức.

Hãy chọn những cách khen thưởng thực thụ có ý nghĩa với nhân sự. Theo Thomas, nếu tặng những chiếc áo in biểu trưng doanh nghiệp hay những voucher xem phim mà nhân sự không thích thì cũng chẳng có nghĩa lý gì. Thay vào đó, hãy thực hiện một cuộc điều tra, phỏng vấn nho nhỏ để xem nhân viên thích được thưởng gì. Một số nhân sự có thể chỉ thích phong tị nạnh, một số khác có thể thích một bữa liên hoan cơ quan. Nếu có thể, cho Anh chị nghỉ nửa ngày hoặc có sự linh động hơn về giờ giấc làm việc cũng là những cách rất hay để động viên họ làm việc.

Tuy nhiên, Thomas cũng cho rằng cần phải xoành xoạch theo dõi những hành vi thiếu lành mạnh hoặc những cảnh huống thụ động nơi công sở để kịp thời điều chỉnh. Nếu không, các viên chức khác sẽ bị liên quan và cảm thấy không hài lòng với môi trường làm việc của họ.

Theo kienthuckinhte.Com

Thứ Bảy, 11 tháng 4, 2015

Mật thư “XIN thôi việc”… - Hr news

Mật thư “XIN nghỉ việc”…

Gửi Anh, CEO bản lĩnh và tình thực.

Em gọi Anh là CEO bản lĩnh và thực lòng là hoàn toàn thực lòng tận sâu trong Em muốn nói. Nhưng Anh cũng không nên ảo mộng quá về bản lĩnh và sự tự tin của mình. Vì rằng, chặng đường phía trước còn khá dài… và Em hy vẳng Anh sẽ duy trì được bản lĩnh và sự tự tin ấy.

Nhận được “tối hậu thư” của Anh, Em tức tốc viết “mật thư” này cho Anh. Cám ơn Anh vì đã cho Em thời cơ để đi khỏi một cách ngấc cao đầu. Anh à, cái cách mà Anh cho thôi việc Em lại càng làm Em mến mộ Anh. Thật mẫu mực, bản lĩnh và đầy sự thực lòng…

Mười năm trước, Em được Anh “nhặt” về tổ chức như một tờ giấy trắng: Không công việc, không kiến thức, không tiền… Em hoàn toàn không có gì ngoài cái bản mặt lỳ như trâu. Em được Anh dạy cho triết lý kinh doanh, chiến lược công - thủ, khát vẳng trong cuộc sống và làm gì để đạt được nó. Ít nhiều Anh đã thêm vài cái gạch đầu dòng trên trang giấy trắng.

Em xin lỗi vì đã gây ra vài điều… mà thực ra là nhiều điều rắc rối trong tổ chức. Và Em rất cảm thấy áy náy vì một vài thất bại của mình, nhưng công ty lại phải gánh thiệt hại của những thất bại đó. Có nhẽ đây là lý do khiến Em hoàn toàn không thích “làm mướn ăn lương”. Nó làm Em “nghi ngờ” khả năng sáng tạo của chính mình… mặc dù Anh vẫn hào sảng nói với Em rằng: - “Hãy cứ sai trái đi Em, chưa đâu… chưa đâu.”

Nếu Thương hiêu là bánh lái của con tàu, nhân sự là người lái tàu… vậy thì chúng ta chở cái gì trên con tàu ấy? Sản phẩm chúng ta bán ư? Không… Em nghĩ là vậy. Vì sản phẩm là như nhau, bất kỳ tổ chức nào cũng có thể làm theo… Chỉ khác ở thông điệp mà chúng ta gửi gắm trong sản phẩm và cách chúng ta mang sản phẩm tới… Hay nói cách khác nó là “Giá trị then chốt”.

Em biết Anh vẫn xem những thứ Em nói, những quyển sách Em đọc, và cả những gì Em làm là lý thuyết viển vông. Em biết… Em biết chứ… Và Em cũng biết Anh đang nghi ngờ sự tận tụy của Em. Tin thì dùng, đã không tin thì không dùng… đó là điều thế tất của ngày bữa nay. Em hiểu và hoàn toàn nhất trí, vẫn biết tình hình sẽ trở thành “ngàn cân treo sợi cáp”.

Mỗi buổi chiều Em vẫn tận dụng thời cơ để nghe và xem Anh nói gì, làm gì. Nhiều khi Em vẫn tự hỏi: “Không biết trong đầu Ông này Ông nghĩ cái gì ta?”. Nhưng Em hoàn toàn không muốn trở nên “thành đạt” giống Anh. Xét về quản trị một thế cục thì chưa chắc Anh đã hơn Em.

Chiều nay, thấy anh có vẻ suy tư nhiều hơn,… giá mà Em có thể gánh giùm Anh “chút suy tư” thì hay biết mấy. Tâm thành vẫn muốn cống hiến cho tổ chức, nhưng nếu phải rời bỏ đối với Em giống như lỡ mất một thời cơ hợp tác. Và Anh chớ nên lo sợ sự oán cừu của Em, dù cộng tác hay không cộng tác thì vững chắc Em và Anh sẽ không bao giờ đứng ở hai chiến tuyến, Anh vẫn sẽ là CEO bản lĩnh và thực bụng. Còn Em vẫn là viên chức mẫu mực và tận tụy…

Muốn đi nhanh thì đi một mình còn muốn đi xa… hãy kiếm một người bạn đồng hành. Chúc Anh thành công trên những chặng đường sắp tới và luôn có những cộng sự bên mình. Chào thân ái và quyết chiến…

… À không, CHÀO THÂN ÁI và QUYẾT THẮNG.

Nhân viên mẫu mực và tận tụy.

Phạm Gia Trang

8 sai lầm của viên chức mới

Vào thời kì đầu khi mới đi làm, các lao động trẻ thường mắc phải những sai lầm phổ biến. Hãy nhận mặt chúng để tránh xa những cái bẫy khôn cùng tai hại này là điều quan yếu để bạn bước đi chắc chắn trên con đường sự nghiệp của mình.



Ngại đề xuất quan điểm

Dù đó là đề nghị tăng lương, thời gian làm việc hay chỉ đơn giản là giãi bày quan điểm thì điều quan trọng là phải biết đứng lên để nói về ý kiến, cách nghĩ suy cũng như đánh giá của bản thân.

Khi bạn mô tả sự tự tin, những người khác sẽ nhìn nhận và đánh giá bạn theo chiều hướng hăng hái. Tất nhiên, bạn chỉ có được điều này nếu bạn làm điều đó bằng sự tôn trọng và chuyên nghiệp.
Uống quá nhiều tại các bữa tiệc chung

Liên hoan cuối năm, tiệc chúc mừng của đồng nghiệp, sinh nhật sếp,… là thời cơ để bạn làm quen với các đồng nghiệp khác trong công ty, là cơ hội để bạn mô tả tài ngoại giao,... Nhưng điều đó chỉ có được khi bạn có cách xử lý thông minh.

Mọi chuyện sẽ trở nên thảm họa, nếu bạn vì vui mà uống quá chén và nói ra những câu không đúng mực. Sẽ chẳng còn gì tệ hơn, khi bạn thức dậy sau cuộc vui cùng đồng nghiệp với sự hối vì đã quá hồn nhiên trong hành động và lời nói.
Làm việc riêng

Bạn nghĩ rằng chẳng ai quan hoài bạn đang và đã làm gì trong cả ngày làm việc. Bạn đang mắc sai trái nguy hại giống hầu hết các cần lao trẻ khác. Bởi vậy, đừng dành thời kì cho Facebook, email cá nhân và những việc không tác động đến công tác trong khi ở công sở.

Ngay cả khi sếp của bạn là một người dễ tính thì người đó kiên cố vẫn sẽ không kiểm tra cao một nhân viên quan hoài đến thông báo của bạn bè trên Facebook nhiều hơn công tác thực tiễn.
Y phục không ăn nhập

đôi khi, y phục lại là vấn đề khó khăn đối với cần lao trẻ. Việc ăn mặc tại nơi làm việc có thể giúp bạn ghi điểm trong mắt đồng nghiệp hay biến bạn trở nên “kẻ ngoại đạo” tại chính nơi làm việc của mình.

Nếu bạn ăn mặc quá khiêu khích, quá con trẻ hay cẩu thả đến công sở có thể bạn sẽ gửi đi thông điệp sai đến đồng nghiệp. Thực tiễn, không ai có quyền phán xét gu thời trang của bạn, chỉ là, nó nên được sử dụng đúng chỗ và đúng hoàn cảnh. Nếu bạn muốn biểu đạt sự nghiêm trang và chuyên nghiệp, hãy ăn mặc cho nghiêm túc và chuyên nghiệp.
Không tạo quan hệ với các đồng nghiệp

Làm việc siêng năng và có bổn phận với công việc là yếu tố giúp bạn có một sự nghiệp thành công, nhưng có quan hệ tốt với đồng nghiệp cũng rất quan yếu. Nó sẽ mang lại thời cơ trong công tác và điều kiện đủ để bạn trở nên nhân viên hoàn hảo.

Rất nhiều bạn trẻ sợ, rụt rè trong việc kiến lập mối quan hệ với các đồng nghiệp, nhưng đó lại là một phần quan trọng trong thế giới công việc. Cách tốt nhất để bắt đầu xây dựng mối quan hệ đồng nghiệp là đề nghị sếp chỉ định cho mình một người chỉ dẫn khi nhận việc.
Buôn chuyện

Xây dựng quan hệ với đồng nghiệp thì có nhưng buôn chuyện thì đừng! Việc gia nhập vào đội quân buôn chuyện là cách mau chóng để tạo quan hệ với đồng nghiệp, nhưng nói khôn xiết hiểm nguy. Sau một thời kì, có thể bạn sẽ trở thành một “kẻ buôn chính hiệu” hoặc có thể sẽ làm tổn thương đến các đồng nghiệp khác.

Thành thử, nếu một người nào đó tìm đến bạn để chia sẻ tin đồn hoặc ca cẩm, nên khéo léo né tránh nó. Về lâu dài, hành động này sẽ giúp bạn không có quân thù nơi công sở.
Đến muộn

Bạn có thể là một người bận bịu với lịch làm việc dày đặc, nhưng nếu bạn cứ thường xuyên đến muộn, mọi người có thể sẽ nghĩ bạn là kẻ chây lười. Mọi người thường đặc biệt lưu ý đến những người đến muộn và đưa ra những nhận xét, kiểm tra tiêu cực về bạn dù điều đó không đúng. Đúng giờ là một yêu cầu quan trọng và nó mang lại nhiều lợi ích trong công việc cho bạn. Do vậy, hãy luôn đến công sở đúng giờ.
Quá tự tín

tự tin là cần thiết, song tự tín thái quá là sai lầm phổ thông của giới trẻ bây giờ. Hãy nhớ rằng, khi lần đầu bước vào thế giới công tác, bạn cũng là người mới giống như sinh viên năm nhất tại trường đại học và bạn có nhiều điều phải học hỏi.

Do vậy, hãy khiên nhường và biết vị trí của mình trong công ty. Không phải vì bạn tốt nghiệp đại học loại ưu mà cảm thấy bất mãn khi được giao việc sao in tài liệu. Hãy nhớ rằng, thái độ của bạn có thể mở ra hay phá bỏ thời cơ sự nghiệp của chính bạn.

THEO CONGSO.NET

Quản lý nhân sự theo phong cách The Beatles - Hr news

Nguồn tham khảo: các biểu mẫu nhân sự

Quản lý   nhân sự   theo phong cách The Beatles

Andrew Sobel là chủ tịch tổ chức tham mưu quốc tế Andrew Sobel Advisors, là tác giả hai quyển sách Making Rain (John Wiley & Sons, 2003) và Clients for Life (viết cùng với Jagdish Sheth Simon & Schuster, 2000). Hãy nghe bậc thầy tham vấn doanh nghiệp có tinh thần nghệ sĩ này phân tách bài học quý giá về tinh thần làm việc đồng đội từ kinh nghiệm thành công của nhóm nhạc Beatles.

Richard Branson - chủ toạ Tập đoàn Virgin rất nổi tiếng về khả năng xây dựng đội ngũ viên chức năng động và sáng tạo. Ông nhấn mạnh môi trường làm việc vui tươi là yếu tố quan yếu đối với bất cứ đơn vị nào mới thành lập.

Thế nhưng, không phải đội ngũ quản lý tổ chức nào cũng tạo dựng được môi trường làm việc thoải mái cho viên chức. Nếu quan hệ giữa các viên chức không thân thiện và không khí làm việc chẳng vui vẻ thì khả năng làm việc của họ cũng đi xuống.

Một điển hình làm việc nhóm có hiệu quả là ban nhạc Beatles. Nhóm nhạc huyền thoại này có bốn chàng trai thường ngày, nhưng đã thành công tột cùng cả về nghệ thuật lẫn tài chính. Các doanh nghiệp nên học tập theo họ.

Nếu bạn muốn tạo ra một môi trường làm việc chuyên nghiệp, hoặc cải thiện ý thức làm việc nhóm, nâng cao khả năng sáng tạo và kỹ năng giao dịch của nhân viên với khách hàng thì đây là bốn lề luật của Beatles bạn nên ứng dụng:

Luật lệ 1: Ngoài thời kì làm việc, các thành viên trong nhóm dành thời gian cùng nhau vui chơi.

“EIGHT DAYS A WEEK” - TÁM càng ngày càng TUẦN
Khi nhóm nhạc non trẻ Beatles được xếp hạng đầu trên bảng xếp hạng Top Hit U.K vào năm 1963 với bài Please please me, mọi người đơn giản đánh giá rằng họ gặp may. Trên thực tiễn, nhóm đã phải làm việc cật lực hàng ngàn giờ trong phòng thu cũng như tại các câu lạc bộ ở Liverpool và Hamburg.

Ngoài ý thức cần lao cần mẫn, bốn chàng trai trong nhóm còn tự xây dựng cách làm việc thân thiện, cùng san sẻ tình yêu âm nhạc, lòng đam mê với rock‘n’roll, cùng du lịch, xem phim, cùng trải qua kỳ nghỉ cuối tuần…

Hiện tại, người ta dường như bỏ quên tầm quan yếu của việc kiến lập sự thân thuộc và lòng tin cậy lẫn nhau - những yếu tố chính giúp nhóm làm việc tránh khỏi sức ép khi hiệp tác. Nhiều doanh nghiệp phát triển “nhóm làm việc ảo” với những thành viên không hề họp mặt nhau. Cách làm này có thể hiệu quả đối với những dự án kỹ thuật, nhưng lại cực kỳ sai lầm nếu ứng dụng cho tổ chức làm dịch vụ.

Lệ luật 2: liên tục có bài hát mới. Truyền cho mọi người tất cả nồng nhiệt và lòng đam mê với sản phẩm mới của mình.

“GETTING BETTER” - càng ngày càng HOÀN THIỆN

Phần đông các nhóm rock chỉ sáng tác và trình diễn những bài hát giống nhau. Bí mật thành công của Beatles trong việc lôi kéo khán giả đến với mình chính là sự đa dạng trong phong cách âm nhạc. Từ album này đến album khác, từ lần xuất hiện này đến lần xuất hiện khác, Beatles luôn làm khán giả đam mê bởi những nhạc điệu lạ lùng, những kỹ thuật thu âm hiện đại, những nhạc cụ mới mẻ… Thử nghe Yesterday và Revolution để cảm nhận sự dị biệt, tính đột phá mà họ tự tạo ra cho nhạc của mình!

Beatles không thể được yêu mến như vậy nếu chỉ hát đi hát lại mỗi bài I Want to Hold Your Hand đơn điệu. Cách tốt nhất để công ty giữ chân khách hàng trung thành là phải liên tục thay đổi sản phẩm và dịch vụ. Amazon đã từ từ bổ sung danh mục mua bán trên mạng của mình thành nhiều chủng loại hàng hóa, thay vì chỉ đơn thuần là sách như trước đây. Porsche liên tục đưa ra nhiều kiểu xe khác nhau, từ chiếc Boxster thể thao tới Cayenne SUV thanh lịch. Gần đây nhất, người đồ sộ Apple tăng doanh số vượt bậc nhờ phần mềm nghe nhạc iPod.

Quy tắc 3: Tạo điều kiện xây dựng thương hiệu riêng của từng thành viên trong thương hiệu chung của cả nhóm bằng cách cho từng người đóng góp ý tưởng. Tất cả đều có cơ hội mô tả khả năng.

“WITH A LITTLE HELP FROM MY FRIENDS” - GIÚP NHAU CÙNG TIẾN

Beatles gặt hái thành công rất sớm phần lớn nhờ vào khả năng sáng tác tuyệt vời của John Lennon và Paul McCartney. Nhưng điều đó không có tức thị George Harrison và Ringo Starr chìm dưới cái bóng của hai người kia. Thường trong các nhóm nhạc, nghệ sĩ chơi trống ít được lưu ý, nhưng ở Beatles, John và Paul thường xuyên viết những bài hát riêng cho Ringo, ví dụ With a Little Help from My Friends trong Sgt. Pepper, giúp anh có chỗ đứng trong lòng người mến mộ. Tương tự, với George Harrison, nhóm tương trợ anh thực hành nhiều bài hát đơn, một số bài nức tiếng như Here Comes the Sun và Something (album Abbey Road).

Liên kết các hào kiệt hỗ trợ nhau cùng phát triển là việc không chút dễ dàng. Các viên chức trẻ mới vào tổ chức làm việc thường gặp nhiều khó khăn do không được kiểm tra cao. Là thành viên của một nhóm đã tốt, nhưng sẽ tốt hơn nếu thỉnh thoảng giao riêng cho từng cá nhân những dự án vừa tầm để mỗi người đều có cơ hội biểu thị mình.

Quy tắc 4: Đặt những nhân viên tài hoa vào cùng một nhóm làm việc, “trộn” viên chức có một thế mạnh đặc biệt với các viên chức có khả năng đồng đều, tạo môi trường cạnh tranh thân thiện để có thêm nhiều sáng kiến.

“I NEED YOU” - TÔI CẦN BẠN

Nhóm Beatles nhờ biết kết hợp những nhân tài khác biệt và ý thức cạnh tranh lành mạnh nên đã tạo thành công lớn. Paul McCartney và John Lennon giống như những viên chức có khả năng đồng đều, thông tỏ âm nhạc, chơi được nhiều nhạc cụ, có khả năng sáng tác, viết lời… trong khi George Harrison và Ringo Starr như những viên chức có thế mạnh đặc biệt. Harrison là một lead guitar cực kỳ xuất sắc đẹp, còn Starr là một tay trống cừ khôi.

Nghệ thuật xây dựng nhóm làm việc hiệu quả nằm ở việc tuyển lựa chính xác từng thành viên một, cũng như sự phối hợp giữa các chuyên viên và những viên chức khác. Không may là nhiều doanh nghiệp quá chú trọng đến các chuyên viên giỏi đào sâu trong một lĩnh vực, khiến họ tạo ra những sản phẩm chỉ tốt ở một điểm nào đó, nhưng không ăn nhập nhu cầu thường ngày của khách hàng.

“AND IN THE END” - VÀ chung cuộc

Cuộc chia tay của nhóm Beatles vào năm 1970 gợi nên một câu hỏi lớn cho các tổ chức: Làm cách nào để giữ vững vị trí ngôi sao khi bạn đã lên đỉnh cao nhất? Làm cách nào để tiếp tục sáng tạo, cải tiến sản phẩm và dịch vụ một khi đã đánh bại tất cả đối thủ? phòng ban nghiên cứu và phát triển (R&D) phải làm gì để kéo dài vòng đời một sản phẩm? Bill Gates chắc cũng đã có nhiều đêm không ngủ để suy gẫm vấn đề trên.

Quantri.Vn

Thứ Sáu, 10 tháng 4, 2015

Làm việc tại 1 công ty lâu hơn 2 năm sẽ khiến thu nhập của bạn giảm 50% - Hr views

Sưu tầm:  kinh nghiệm xin việc ở các khu

Làm việc tại 1 công ty lâu hơn 2 năm sẽ khiến thu nhập của bạn giảm 50%
Một bài báo gần đây từ tạp chí Forbes đã nói rằng: “Làm việc tại 1 công ty lâu hơn 2 năm sẽ khiến tổng thu nhập của bạn giảm 50% trong vòng 10 năm.”

Trong biểu đồ phía dưới trích từ bài báo trên, đường màu xanh dưới cùng là thu nhập của bạn khi làm việc ở 1 công ty liên tục trong 10 năm. Với mỗi lần nhảy việc, thu nhập của bạn sẽ được nâng lên đường tiếp theo (màu da cam, màu xám, màu vàng). Màu xanh trên cùng là thu nhập bạn sẽ có được trong 10 năm nếu cứ 2 năm bạn nhảy việc 1 lần: cao hơn 50% so với đường màu xanh dưới cùng.



Đây là con số được tính theo mức lương và thị trường Mỹ. Ở Việt Nam, con số cụ thể sẽ khác một chút, nhưng thông điệp thì như nhau: Chuyển việc thường xuyên có khả năng tăng thu nhập của bạn lên đáng kể.

Tại sao chuyển việc hợp lý sẽ tăng thu nhập của bạn lên đáng kể

Vì thường công việc mới sẽ cho bạn 1 mức lương cao hơn mức lương hiện tại của bạn.

Có 2 lý do cho điều này: 1) Công ty mới cần bạn (vậy nên họ mới tuyển bạn), họ sẵn sàng offer mức lương cao để hấp dẫn bạn; và 2) Công ty cũ đã có bạn sẵn rồi, họ sẽ khó cho bạn một mức tăng đáng kể vì nhiều lý do, trong đó có tâm lý: “của nhà trồng được, sao phải giữ.”

Giả sử 2 người cùng có mức lương 14 triệu/tháng trong cùng 1 công ty. Mức tăng lương trung bình của vị trí đó là 8% và mức tăng trung bình của một công việc mới là 15%. Người A ở cùng vị trí đó trong 10 năm, người B chuyển việc 2 năm 1 lần. Sau 10 năm, người B sẽ có 1 mức lương cao hơn người A 37%.

Vì sao bạn nên chuyển việc

Thế giới đang rất đói khát nhân tài. Các công ty có thể cần ít người hơn với sự giúp đỡ của công nghệ thông tin, nhưng cần nhiều người thực sự “chất lượng” hơn (Ít nhưng mà chất).

Điều này có nghĩa là: nếu bạn thực sự có khả năng, bạn đang ở 1 thời điểm tuyệt vời để thay đổi công việc và đạt được 1 mức lương tương xứng hơn vì cung đang vượt xa cầu trong thị trường tuyển dụng nhân sự cao cấp.

Bethany Devine, 1 quản lý nhân sự cao cấp tại Silicon Valley, California, đã từng làm việc với nhiều công ty trong danh sách Forbes 500, nói: “Khi ở 1 công ty mãi mãi, bạn sẽ được tăng lương đều đều hàng năm. Tuy nhiên mức tăng này rất hạn chế. Khi nộp đơn sang 1 công ty khác, bạn có quyền đỏi hỏi 1 mức lương cao hơn mức lương hiện tại của bạn.”

“Tương tự với chức danh: 1 công ty thường có giới hạn số lượng người được thăng chức trong 1 năm, và nhiều khi bạn phải đợi đến “lượt” mình. Tuy nhiên, nếu bạn chuyển sang 1 công ty khác với đủ kinh nghiệm và khả năng cho 1 chức danh cao hơn, bạn sẽ có nhiều khả năng có được vị trí đó luôn mà không cần phải xếp hàng chờ ai cả.”

Devine cũng nói rằng bà thường thấy những nhân viên ở quá lâu trong 1 công ty tình trạng bị trả giá thấp hơn thị trường.

Tại sao bạn KHÔNG nên chuyển việc ngay hôm nay

Mọi người thường lo lắng về việc nhảy việc quá nhiều làm cho bạn mất điểm trong mắt nhà tuyển dụng. Đúng như vậy!

Sự thật là có nhiều nhà tuyển dụng sẽ loại hồ sơ của bạn ngay lập tức chỉ vì bạn đã từng nhảy quá nhiều việc trước đây. Đừng bao giờ quên điều này.

Ta cũng có thể nhìn vấn đề theo 1 góc khác: bạn sẽ được thưởng nếu bạn thành công (tăng 10-20% lương), vậy điều này có đáng để bạn thử?

Daniel Tedesco, General Manager của DEK Technologies tại TP. HCM, nói rằng công ty của ông không bao giờ tuyển ai nhảy việc nhiều hơn 1 lần trong 2 năm. Tuy nhiên, 1 số nhà tuyển dụng IT đã thừa nhận rằng chuyển việc 2-4 năm một lần là cách tốt nhất để đạt được thu nhập tối đa.

Câu hỏi không phải là bạn có nên nhảy việc hay không, mà là bạn nên chờ bao lâu rồi hẵng nhảy việc để đạt được mức thu nhập lý tưởng nhất cho mình và tận dụng mọi cơ hội.

Bên cạnh chuyện lương bổng, Shane Devlin, General Manager of ASWIG Solutions tại TP. HCM, nói nhảy việc có thể còn rất áp lực về tâm lý. Bạn cần xem xét đầy đủ các yếu tố về chất lượng cuộc sống, đời sống tinh thần, vật chất… Tiền bạc là quan trọng, nhưng nó phải cần bằng với các yếu tố khác trong cuộc sống của bạn, và nó không nên là kim chỉ nam cho mọi thứ.

Nhảy việc là 1 điều mạo hiểm mà chúng ta phải cân nhắc kĩ lưỡng trước khi quyết định. Về phía các công ty, tuyển thêm 1 người có thể làm tốt hơn 1 người khác chỉ 10% thôi, đáng giá ít nhất 25% tăng lương. Các công ty trả rất nhiều tiền để tuyển và huấn luyện người mới, trong khi sẽ rẻ hơn rất nhiều nếu họ chỉ tuyển những người tốt hơn và trả họ nhiều hơn.

Kết luận

Một lần nữa, thông điệp của chúng tôi KHÔNG phải là cứ 2 năm thì bạn nhảy việc 1 lần. Đây chắc chắn là 1 chiến lược tồi cho tất cả mọi người.

Thông điệp của chúng tôi là: Sau khi làm việc ở 1 nơi trong 2 năm, bạn nên dừng lại và nhìn vào bức tranh tổng quát. Hãy tự trả lời các câu hỏi: trong vài năm tới, mình muốn làm ở vị trí như thế nào, công ty như thế nào, tính chất công việc như thế nào, lương bổng như thế nào…

Nếu công ty hiện tại cho bạn cái bạn cần trong vài năm tới, dĩ nhiên bạn nên ở lại công ty đó và tiếp tục học hỏi, phấn đấu. Nếu bạn không chắc về điều này, hãy bắt đầu ngó nghiêng các cơ hội xung quanh.

Tại sao lại là con số 2 năm? Vì 2 năm là 1 khoảng thời gian đủ dài để bạn hiểu được 1 cách toàn diện công việc, đồng nghiệp, môi trường và cơ hội thăng tiến công ty hiện tại mang lại cho bạn.

Hãy chú ý rằng đây không phải là lời khuyên có thể áp dụng cho tất cả mọi người; nhưng tất cả mọi người nên cân nhắc lời khuyên này.

Việc bạn ở quá lâu trong 1 công ty và bị trả lương thấp hơn thị trường không phải là lỗi của quản lý hay doanh nghiệp, vì tối đa lợi nhuận và giảm chi phí là nghĩa vụ của họ. Nhưng, với tư cách là CEO của chính mình, bạn cũng có nghĩa vụ tối đa hóa lợi nhuận của bản thân.

Itviet.Com

Thứ Tư, 8 tháng 4, 2015

5 Bước để có bản kiểm tra thành tích cuối năm hiệu quả

5 Bước để có bản đánh giá thành tích cuối năm hiệu quả

Cuối năm luôn là thời khắc các đơn vị thực hành bản đánh giá   nhân sự   . Lãnh đạo và các nhà quản lý hiểu đươc tầm quan yếu và tính dài hạn của các bản tổng kết này, tuy nhiên họ thường không đặt chúng lên top công việc cần ưu tiên nhất trong thời khắc bận rộn cuối năm.

Đối với nhiều tổ chức, đây lại là thời điểm duy nhất trong năm để cả lãnh đạo và nhân viên nhìn lại, đánh giá lại, xác định và tập kết vào những mục đích mới, những nấc thang mới trong công tác – bao gồm cả bàn thảo về những đổi thay về chế độ   lương   thưởng. Dưới đây là 5 bí quyết để xây dựng một bản nhận xét công việc không chỉ thực tại mà còn có ý nghĩa tạo động lực cho nhân viên.

1. Hãy thật cụ thể và minh bạch.
Bản kiểm tra công tác càng cụ thể càng hữu ích cho viên chức, và càng có khả năng trở nên “kim chỉ Nam” để nâng cao tinh thần và kết quả làm việc của viên chức. Các bản đánh giá cần đề cập đến những điển hình của cá nhân hay tập thể trong tổ chức với những thành tích xuất sắc đẹp để liên quan sự cạnh tranh phát triển. Nếu không có một cấu trúc chuẩn cho bản tổng kết, nhà quản lý càn tạo ra một cơ chế minh bạch – chia bản đánh giá thành những mục tiêu và tiêu chí về năng lực cụ thể và xác định rõ ràng tỉ trọng đánh giá của mỗi tiêu chí. Bằng cách đó, nhân viên của bạn có thể nắm được họ được kiểm tra bằng cách nào và cái gì là tiêu chí quan yếu nhất.

2. Đánh giá thường xuyên.
Để đạt hiệu quả cao nhất, các trưởng phòng, quản lý và ban lãnh đạo cần thường xuyên cập nhật các bản đánh giá công việc ít ra là hàng quý, thậm chí là hàng tuần nếu có điều kiện. Nếu đơn vị của bạn chỉ kiểm tra mỗi năm 1 – 2 lần, cấp trên và viên chức vẫn nên luận bàn và rà soát lại các công việc đánh giá thường xuyên, nhằm giảm thiểu những dị đồng quan điểm và bất ngờ trong bản tổng kết cuối năm. Thường xuyên đàm luận về kết quả công tác còn cho phép chúng ta có thời kì để chuẩn bị cho những đổi thay cần thiết hoặc tiếp cận các vấn đề từ khi mới phát sinh chứ không để tồn đọng đến tận cuối năm.

3. Thu thập thông tin từ tất cả các phía.
Một số đơn vị đã xây dựng cơ chế đánh giá 360 độ, trong đó nhân viên có thể phản hồi lại với quản lý, cấp trên cũng như đồng nghiệp của mình. Trong trường hợp doanh nghiệp không có cơ chế đó, các nhà quản lý vẫn nên thu thập thông báo theo các cách phi chính thức từ các mai mối làm việc của các viên chức. Cách này không chỉ đảm bảo tính khách quan của đánh giá từ nhiều phía mà còn giúp khơi dậy một môi trường làm việc nơi mà teamwork được đề cao và lòng tin được thắt chặt.
Hao hao như vậy, cách mà nhân viên tự kiểm tra kết quả làm việc của họ cũng quan trọng không kém. Đó là cơ hội để họ miêu tả những thành quả đã đạt được, cách họ vượt qua những thử thách trong công việc và hơn nữa, còn xác định được những tiêu chí cần phải được cải thiện trong ngày mai. Trên thực tiễn tại nhiều tổ chức, quy trình đánh giá kế quả công tác khởi đầu từ việc tất cả các nhân viên hoàn thành bản tự kiểm tra của bản thân, sau đó cấp trên của họ coi xét và đưa ra kết luận.

4. Biết tạo động lực cho nhân viên.
Điều quan trọng của một người quản lý nhân nhân sự là hiểu rõ nhân viên và cung cấp những phản hồi ăn nhập, mang tính xây dựng và có thúc đẩy đối với từng cá nhân. Một số cá nhân có khuynh hướng được tác động bởi những đánh giá mang tính định lượng, dễ dàng nhận diện và cách những đánh giá đấy liên quan trực tiếp đến lương, thưởng của họ. Trong khi đó, có những viên chức lại lấy những giải thưởng ghi nhận thành tích hay cơ hội phát triển sự nghiệp làm động lực phấn đấu. Cần phải xác định được động cơ gì sẽ khiến viên chức làm việc để có một bản kiểm tra hiệu quả hơn.
Cần lưu ý rằng, những cuộc đàm đạo thân thiện như trong giờ ăn trưa, café giải lao giữa quản lý và nhân viên sẽ giúp nhà quản lý hiểu được tâm lý viên chức của mình hơn từ những cuộc hội thoại tự nhiên, mang tính hợp tác cao.

5. Vận dụng công nghệ trong kiểm tra thành tích.
Hiện giờ, các phần mềm phục vụ cho việc đo lường thành tích, đánh giá kết quả làm việc được thiết kế cho tất cả các quy mô tổ chức với mức ngân sách khác nhau. Các phần mềm này có thể nhanh chóng và dễ dàng lướt qua các chỉ tiêu kiểm tra của các cá nhân và đưa ra bản đánh giá tổng hợp,minh bạch, kiệm ước chi phí và thời kì cho nhà quản lý. Trên thực tế, chúng ta sẽ xây dựng cơ sở điện toán đám mây về dữ liệu nhân sự mà tất cả mọi nhân sự tròn doanh nghiệp đều có thể dễ dàng tiếp cận đóng góp và quá trình đánh giá.

Nguồn: entrepreneur.Com

Nhà băng sẽ gạn lọc nhân sự để có chất lượng nhân lực tốt hơn

Theo thống kê, từ năm 2016 các trường đại học có khả năng cung ứng 61.000 cử nhân chuyên ngành tài chính nhà băng, vượt 150% so với nhu cầu của ngành.

Dự định tỷ lệ gạn lọc thiên nhiên của ngành tài chính ngân hàng trong thời gian tới sẽ ở mức 5%. Từ năm 2016, nguồn cung nữ lực ngành nhà băng vượt khoảng 150% so với nhu cầu.

Khảo sát về “Cung cầu nhân lực ngành nhà băng tài chính Việt Nam” của Viện BTI và Hay Group cho thấy, ngày một có nhiều nhà băng vận dụng việc trả lương theo hiệu quả lao động chứ không chỉ theo hệ số thâm niên.



Hiện nay, để đảm bảo tính bền vững và gắn kết của người cần lao, việc trả thưởng, lương kinh doanh sẽ được phân bổ đều theo thời kì chứ không chỉ dồn vào cuối năm. Hình thức thu nhập cũng được đa dạng hóa bằng cổ phiếu, bảo hiểm… chứ không chỉ bằng tiền mặt.

Tỷ lệ thanh lọc nhân sự tài chính nhà băng sẽ khoảng 5%/năm

Theo thống kê, từ năm 2016 các trường đại học có khả năng cung ứng 61.000 cử nhân chuyên ngành tài chính nhà băng, vượt 150% so với nhu cầu của ngành.

Tuy nhiên, về chất lượng các nhà băng nhận định: Sinh viên mới ra trường còn có các lỗ hổng kỹ năng và kiến thức đáng kể để sẵn sàng làm việc tốt.

Ba kỹ năng thiếu hụt nghiêm trọng nhất là tiếng Anh, khả năng làm việc nhóm, khả năng thích nghi với môi trường mới.

Ba mảng tri thức thiếu hụt nghiêm trọng nhất là: nền tảng nhà băng thương nghiệp, nền móng kinh tế vĩ mô và nền móng quản lý rủi ro.

Theo nhận định của một số chuyên gia tài chính, trái với xu thế tuyển dụng nóng để có đủ nhân sự cho việc mở rộng màng lưới trong 3 năm qua, trong các năm sắp tới ngành nhà băng sẽ chủ động sàng lọc nhân sự để có chất lượng nhân lực tốt hơn, cạnh tranh hơn.

“Việc được tuyển dụng vào nhà băng không đồng nghĩa với việc đảm bảo có công việc ổn định mãi mãi”.

Ngân hàng sẽ chủ động đưa ra các định biên năng suất lao động và đo lường hiệu quả lao động… để gạn lọc nhân sự. Việc chắt lọc nhân sự sẽ được coi là một hoạt động thường xuyên dù có hoạt động tái cấu trúc hay không.

Dự kiến tỷ lệ chắt lọc thiên nhiên sẽ ở mức khoảng 5%, tương ứng với 5% nhân sự không thích hợp tiêu chuẩn sẽ được thanh lọc.

Nợ xấu bắt nguồn từ lỗ hổng về năng lực và đạo đức nhân sự nhà băng

Khảo sát của Viện BTI và Hay Group cũng cho hay, tỷ lệ nợ xấu của hệ thống nhà băng lên tới 202 ngàn tỷ đồng, các vụ việc cố ý làm trái, ăn lận và lừa đảo với các thất thoát hàng ngàn tỷ đã khiến các nhà băng đang phải đối mặt với việc giảm sút lòng tin của người dân với hệ thống nhà băng.

“Việc mất lòng tin này có căn do sâu xa bắt nguồn từ các lỗ hổng về năng lực đạo đức nhân sự” – Bản khảo sát nêu rõ.

Chính thành thử, nhiều chuyên gia đã cho rằng, các ngân hàng sẽ kiếm tìm biện pháp dài hạn cho vấn đề này bằng cách tiêu chuẩn hóa năng lực nhân sự cho các vị trí cốt lõi của ngành.

Theo Infonet

Thứ Bảy, 4 tháng 4, 2015

Chiến thuật tuyển dụng trong trận đấu anh tài - Hr news

Sưu tầm: download sách quản trị nhân sự

Chiến thuật   tuyển dụng   trong cuộc chiến nhân tài

Khoảng 7 năm trước, các chuyên gia sản vấn của hãng McKinsey & Company đã công bố kết quả của một nghiên cứu dưới tên gọi là “cuộc chiến giành nhân tài”(The war for talent). Và kể từ đây, thuật ngữ này trở nên phổ thông rộng rãi. Người ta hiểu ra một điều rằng, trong sự cạnh tranh ngày một gay gắt của thương trường, nhân tài chính là một thứ tài sản quý giá của tổ chức. Và vì thế, việc săn tìm và giữ chân người tài vẫn mãi là cuộc chiến dai dẳng giữa các doanh nghiệp, tổ chức.

Hiện tại, những kiểu   tìm kiếm   nguồn nhân lực truyền thống như đăng quảng cáo   tuyển dụng   trên báo chí, Internet, hợp tác với các trung tâm giới thiệu việc làm, các dịch vụ săn đầu người…vẫn được coi là tương đối phổ thông. Và tất nhiên, các phương pháp tuyển dụng này vẫn sẽ chiếm ư thế trong mai sau. Bên cạnh đó, trong nhiều trường hợp, các phương pháp này chưa hẳn đã mang lại kết quả như mong muốn. Và các nhà tuyển dụng lại phải vắt óc kiếm tìm những biện pháp khác hữu hiệu hơn. Bài viết dưới đây sẽ giới thiệu cho bạn bốn biện pháp tuyển dụng hiệu quả đó.

Biện pháp thứ nhất: Treo bảng lăng xê tuyển dụng cạnh văn phòng đối thủ
Lợi: Có thể thu hút   nhân sự   một cách chóng vánh
Hại: Có thể làm giảm hình ảnh và uy tín của đơn vị

Cuối tháng 11/2005, doanh nghiệp Satchers trực thuộc tập đoàn Swiss Realty đã tạo ra một “sự cố” xung vòng quanh việc tuyển dụng nguồn nhân lực. Để thu hút nhân sự, tổ chức đã tiến hành một chiến dịch quảng cáo tốn kém và khá ấn tượng bằng màn xuất hiện của hai nữ chuyên gia cấp quản lý trong trang phục “con nhà nghèo” kèm câu minh họa “A gentleman is expected to rise, when a lady enters the room” (Một người đàn ông đúng nghĩa phải đứng dậy, khi quý bà bước vào phòng).

Vài ngày sau, cạnh văn phòng của một loạt các đơn vị đối thủ “láng giềng” của Satchers - Colliers International, Jones Lang LaSalle, Blackwood, Paul’s Yard, 4Rent Estate, Knight Frank…, người ta nhìn thấy những chiếc xe hơi diễu hành hỗ tương với bảng hiệu kêu gọi nhân viên các hãng này thay đổi công ăn việc làm với những thông điệp ấn tượng “Winter. Time to change job” (Mùa đông. Đã đến lúc bạn nên thay đổi công việc) hay “Tired of your f…k’n boss? Change it” (Bạn đã quá mệt mỏi vì sếp chưa? Hãy thay đổi công tác).

Trong khi chiến dịch quảng cáo đang tiếp tục tiếp diễn và các chuyên gia nhân sự chưa kịp thống kê kết quả, thì hàng ngày, điện thọai từ các người tìm việc tiềm năng liên tiếp đổ dồn, đến nỗi giám đốc đối ngoại của Satchers phải thú nhận rằng: “Cách tuyển dụng này hiệu quả hơn hẳn các phương pháp tuyển dụng truyền thống. Nhiều người tìm việc giữ chức vụ cao cấp trong các tổ chức đối thủ đã gọi điện cho chúng tôi để liên can gửi giấy tờ tuyển dụng”.

Nhiều chuyên gia nhân sự cho rằng, hiệu quả của cách tuyển dụng này có thể gắn liền với thời khắc Satchers tung ra chiến dịch quảng cáo. Đối với các đơn vị môi giới bất động sản như Satchers, bắt đầu mùa đông là thời khắc chấm dứt năm tài chính. Và như vậy, từ thời điểm này cho đến giữa tháng giêng được coi là “mùa chết” hay “mùa rảnh rang”, các viên chức có thì giờ để nghĩ đến khả năng “khiêu vũ việc” để đi tìm cho mình một nơi làm việc lý tưởng hơn.

Biện pháp thứ hai: Tuyển dụng theo lối đánh du kích

Biểu thị: tham dự vào các chương trình hội thảo, hội nghị hay triển lãm

Lợi: Có thể làm quen với các ứng cử viên tiềm năng
Hại: Khó có thể dự báo trước được kết quả

Đây cũng là một trong những cách   tìm kiếm nhân sự   khá hiệu quả, giả dụ các cách “truy lùng” theo kiểu truyền thống không mấy tác dụng. Khác với các chương trình   đào tạo   bình thường, các chương trình hội thảo, hội nghị, triển lãm thường được công ty theo chuyên ngành hẹp và ít khi thu tổn phí. Theo kinh nghiệm của một chuyên gia tuyển dụng của công ty chuyên kinh doanh nguyên liệu xây dựng, ngày đầu tiên của chương trình hội thảo, hội nghị hay triển lãm thường dành cho các thủ tục của lễ mở màn, còn ngày thứ hai, thứ ba của chương trình hay được các chuyên gia chuyên ngành dành để tìm hiểu, thu thập thông tin. Đây chính là thời khắc lý tưởng để các chuyên gia nhân sự “ra chiêu”. Trong chương trình triển lãm về vật liệu xây dựng được công ty tại tỉnh giấc nọ, vị chuyên viên nhân sự này đã tiếp cận được với một thuyết trình viên của triển lãm. Và ngay sau đó, vị khách đã nồng hậu giới thiệu cho chuyên gia nhân sự bốn học sinh cưng của mình. Ba người trong số này giữ các chức phận khá cao và tỏ ra khá trung thành với tổ chức của họ. Người thứ tư, sau nhiều lần nghe nữ chuyên viên nhân sự thuyết phục, đã đồng ý đầu quân cho tổ chức của bà. Hơn thế nữa, anh chàng quân nhân mới này còn kéo thêm hai đồng nghiệp sáng giá sang nơi làm việc mới. Vậy là, nhất cử lưỡng nhân thể, một mũi tên trúng mấy đích.

Giải pháp thứ ba: doanh nghiệp các cuộc thi chuyên ngành có thưởng

Lợi: có thể tìm ra nhân kiệt
Hại: đòi hỏi thời kì, công sức và đôi khi không thích hợp với việc giải quyết các nhiệm vụ mang tính chiến thuật.

Nhằm thu hút các chuyên gia lành nghề, nhiều tổ chức đã đơn vị các cuộc thi tuấn kiệt. Một tổ chức chuyên về kinh donah phần mềm nọ đã công ty cuộc thi tìm kiếm ý tưởng tốt nhất cho chương trình diệt virus với giải nhất là một chiếc máy tính màn hình tinh thể lỏng cùng chiếc máy in laser màu.

Cả doanh nghiệp đã phải dành ra mấy tháng cho việc công ty và nghiệm thu kết quả của cuộc thi này. Ba người tìm việc xuất dung nhan nhất được chọn để trao giải. Và ngoài giải thưởng, hai trong ba người tìm việc được chính thức mời vào làm việc tại đơn vị với mức   lương   hấp dẫn. Cả hai nhanh chóng vượt qua giai đoạn thử việc và hòa nhập vào môi trường làm việc mới với sự nỗ lực không ngừng.

Bên cạnh đó, để đơn vị các chương trình này, nhà phỏng vấn thường phải huy động nhiều bộ phận, nhân sự, nguồn lực cùng kết hợp thực hiện. Theo quan điểm của nhiều chuyên gia, phương pháp này thường gây tốn kém về nguồn lực cũng như thời kì, và bởi thế, chỉ nên ứng dụng trong điều kiện thực thụ cần thiết. Song, cũng có không ít quan điểm cho rằng, đây là phương pháp “đãi cát tìm vàng” khá hiệu quả, bởi so với việc kiếm tìm thiên tài phê chuẩn các trọng tâm dịch vụ săn đầu người với thời kì kéo dài nhiều tháng trời, có những vị trí kéo dài tới cả năm, cách thức này vẫn được coi là khả quan hơn cả.

Biện pháp thứ tư: công ty giao lưu, giới thiệu thời cơ việc làm

Lợi: Tạo ra nguồn nhân công bên ngoài
Hại: phí cao cho việc tổ chức

Do nhu cầu mở rộng và phát triển kinh doanh, nhiều tổ chức, tổ chức đã phải tìm cách thu hút nguồn nhân lực từ bên ngoài nhằm bổ sung cho các chi nhánh, các văn phòng mới. Ngoại giả, trong điều kiện cạnh tranh gay gắt về nguồn nhân công trên thị trường lao động, các giải pháp tuyển dụng truyền thống nhiều khi chẳng thể đáp ứng nổi nhu cầu thúc bách của công ty. Và các chuyên gia tuyển dụng buộc lòng phải nghĩ ra nhiều phương án khác nhau nhằm giải bài toán hóc búa này.

Tại Việt , nhiều tổ chức đã mạnh bạo doanh nghiệp các chương trình giao lưu, giới thiệu cơ hội việc làm nhằm thu hút các sinh viên chuẩn bị tốt nghiệp. Đi tiền phong trong lĩnh vực này có thể kể đến các doanh nghiệp kiểm toán, các đơn vị ngành công nghệ thực phẩm và mới đây là các ngân hàng. Vào thập niên 90, các đơn vị kiểm toán có vốn đầu tư nước ngòai đã khởi đầu nhắm đến các sinh viên trường ĐH Kinh tế, tài chính – ngân hàng. Vào mùa rỗi rãi, sau khi chấm dứt năm tài chính (thường là từ tháng 9 đến tháng 11 hàng năm), bộ phận nhân sự lên kế họach tiếp cận sinh viên, đơn vị các buổi giao lưu, hội thảo, các chương trình giới thiệu tổ chức cũng như các vị trí tuyển dụng. Câu lạc bộ (CLB) “a2c” của trường ĐH Kinh tế TP.HCM là một địa chỉ giao hội Cả nhà sinh viên đam mê hiểu biết, thích cọ xát với tình huống thực tại. Nhiều đơn vị kiểm toán đã tham gia tài trợ cho CLB này và duyệt đó, họ có dịp sàng lọc một lượng ứng cử viên mai sau cho các vị trí kiểm tóan viên đang muốn nhắm đến. Qua các cuộc tiếp xúc này, những sinh viên nào trình bày sự nhanh nhạy, thông minh trong cách giải quyết vấn đề sẽ được đại diện các doanh nghiệp để ý và “khoanh vùng”.

Trước thềm hội nhập WTO, các ngân hàng Việt cũng đang phải đối mặt với nạn thiếu nhân công trầm trọng. Nhiều nhà băng đã tham dự vào chương trình ngày hội việc làm, đơn vị giao lưu, tài trợ, cấp học bổng cho các sinh viên khá giỏi thuộc ngành kinh tế, tài chính – nhà băng. Đầu tháng 6 vừa qua, nhiều đơn vị kiểm toán cùng với các ngân hàng tại TP.HCM đã tham dự chương trình giao lưu với khối sinh viên ngành tài chính – ngân hàng nhằm tìm kiếm nguồn nhân công bổ sung trong quá trình phát triển kinh doanh.

Nhiều doanh nghiệp sinh sản ngành hàng thực phẩm còn bạo dạn công ty các chương trình tham quan nhà máy để sinh viên có dịp làm quen với thực tiễn công việc, từ đó có cái nhìn đầy đủ hơn về ngành nghề. Thông qua các chương trình tham quan này, nhà phỏng vấn cũng có thể xác định đối tượng cần tiếp cận, và đó cũng là một trong những cách thu hút nguồn nhân lực hiệu quả trong điều kiện cạnh tranh gay gắt về chất xám trên thị trường lao động hiện giờ.

Tóm lại, các cách thức thu hút nguồn nhân công trên đây được coi là hiệu quả trong một số trường hợp. Bên cạnh đó, bạn cũng phải cân nhắc kỹ trước khi thực hiện, bởi bên cạnh những lợi ích rõ ràng, các phương pháp này cũng trình bày một số điểm hạn chế. “Liệu cơm gắp mắm”, tất cả tùy thuộc ở bạn mà thôi.

Quantri.Vn